Tin tức : Trao đổi KN - PPDH
TỔ CHỨC CHO HỌC SINH HỌC TẬP THEO NHÓM CỘNG TÁC NHƯ THẾ NÀO ?
1- Học tập theo
nhóm cộng tác
1.1- Cơ sở tâm lý, giáo dục học
- Thuyết kiến thiết xã hội của Vy-gốt-xki: Sự phát triển của trẻ em theo 3 quy
luật [4]:
Quy
luật thứ nhất, sự hình thành các chức năng tâm lý bậc cao (CNTLBC-trình độ văn hóa) theo
con đường lĩnh hội, từ trên xuống, từ ngoài vào, nhờ sử dụng các công cụ ký hiệu. "Bất kỳ hoạt động ký hiệu nào
của trẻ em bao giờ cũng là hình thức xã
hội của sự hợp tác và trong toàn bộ quá trình phát triển cho đến điểm cao
nhất của nó, vẫn bảo toàn phương thức
vận hành mang tính chất xã hội.
Quy
luật thứ 2 phản ánh quan hệ đặc trưng của cá nhân với xã hội. Quan hệ giữa các
CNTLCC là các hình thức hành vi xã hội
mang tính chất tập thể, trong quá trình phát triển đã trở thành phương tiện
thích ứng của cá nhân, các dạng hành vi và tư duy cá nhân. Nói cách khác, các CNTLCC xuất hiện từ các hình thức hành
vi xã hội mang tính tập thể.
Quy
luật thứ 3,: Vy-gotsky gốt-xki nhấn mạnh đến vai trò cơ bản của
tương tác xã hội đối với sự phát triển nhận thức. “Bất kỳ CNTLCC của trẻ em
trong quá trình phát triển đều được thể hiện hai lần: Lần đầu là hoạt động tập thể, hoạt động xã hội,
là chức năng tâm lý bên ngoài; lần thứ hai là hoạt động cá nhân, là chức năng
tâm lý bên trong”.
Theo Vy-gốt-xki, thông qua sự giúp đỡ của một người có khả năng hơn, một đứa trẻ có thể học các kỹ năng hoặc các khía cạnh của một kỹ năng
mà đi vượt quá mức độ phát triển hoặc năng lực thực tế của trẻ (“Vùng
phát triển gần”) [4].
(Lưu ý: chủ thể của việc
học là mỗi cá nhân, không ai học hộ được cho ai).
-
Thuyết kiến thiết của Pi-a-giê (Piaget): Pi-a-giê cho rằng kinh nghiệm xã
hội đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển và thay đổi nhận thức.
Sự tương tác giữa các học sinh đặc biệt dẫn tới sự mất cân bằng (về nhận thức),
tức là sự không tương đồng giữa những gì mà một em học sinh biết và thông tin
từ môi trường mang lại. Hiện tượng này còn gọi là xung đột nhận thức. Thông qua
thảo luận, tranh luận, và đối thoại với nhau, học sinh sẽ đi từ trạng thái mất
cân bằng đến trạng thái cân bằng, khi đó việc thay đổi nhận thức có thể xảy ra [4].
- Quan điểm Giáo dục: không em nào bị bỏ rơi/tất cả HS cần được đảm bảo cơ hội tiếp cận
học tập mức độ học cao hơn [5]. Trách nhiệm
của nhà trường và của GV là thực hiện quyền được học của từng cá nhân HS, không
bỏ sót một em nào, cũng như tạo cơ hội cho HS được tiếp cận mức độ học cao hơn
(không em nào bị bỏ rơi/tất cả HS cần được đảm bảo cơ hội tiếp cận mức
độ học cao hơn). HS rất khác nhau (về nhiều
mặt) và GV cần chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt này.
Triết lý giáo dục: đảm bảo cơ hội học tập thực
sự có chất lượng cho từng học sinh [5].
- Quan điểm GD hướng tới “trường học là một cộng
đồng học tập”, trong đó học tập cộng tác là nền tảng của việc học [5].
- Trong các kỹ năng mềm của con người thế kỷ XXI,
có kỹ năng giải quyết vấn đề và làm việc với
con người (làm việc đồng đội, cộng tác theo nhóm) [5].
- “Người nào hỏi nhiều sẽ học được nhiều. Người
đó càng học được nhiều nếu biết đặt câu hỏi đúng với sở trường của người được
hỏi bởi vì người đó sẽ cho người được hỏi cơ hội tự hài lòng khi nói, còn người
hỏi sẽ được liên tục thu thêm kiến thức.”(Francis Bacon)
1.2- Cơ sở thực tiễn
- Thông
tư 30 về đánh giá học sinh theo định hướng năng lực, phẩm chất (năng lực tự
học, học tập cộng tác,...)
- Học sinh học tập trong
lớp học ở mô hình Trường học mới Việt Nam
là sự kết hợp chủ yếu giữa học tập cá nhân và học tập theo nhóm. Hình thức tổ
chức lớp học chủ yếu là học sinh ngồi theo nhóm. Trong đó, HS chủ động thực
hiện các bước học tập (cá nhân hoặc theo nhóm) theo tài liệu và hướng dẫn của
giáo viên. Như vậy, HS sẽ được học nhiều
hơn. Tuy nhiên, để chất lượng việc học của mỗi học sinh được nâng cao thì cần phải xem xét thực tế việc học của HS
trong từng tình huống và thời điểm cụ thể [6].
- Trong dạy học theo PPDH truyền thống [6]:
+ Mỗi lớp học, tỉ lệ “HS có thể hiểu hầu hết nội
dung bài học” chỉ là 1/3. Thêm 1/3 nữa là những “HS có thể hiểu được một nửa
nội dung bài học”.
+ Nếu GV phân loại HS thành nhóm “khá giỏi”,
“trung bình” và “yếu” thì nội dung sách giáo khoa chủ yếu hướng vào trình độ trung bình của các em thuộc nhóm
khá giỏi. GV cũng thường có xu hướng nhằm chú ý nhiều vào đối tượng này khi
tổ chức giờ học.
+ Trong 3 nhóm đối tượng
HS, chỉ một số em trong nhóm “trung bình” là được học thực sự.
HS thuộc nhóm “khá giỏi”
thường xuyên phát biểu nhưng các em chỉ trình bày những nội dung đã biết hoặc
những nội dung dễ hiểu. Không có việc học để “vươn cao và tạo bước nhảy” vượt qua khả năng hạn chế của bản thân.
Những HS thuộc nhóm “yếu kém” cũng có cơ hội để phát biểu ở phần đầu của bài
học, nhưng ở phần sau thì các em yên lặng lắng nghe các bạn khác.
- Lợi ích lớn nhất của học
tập cộng tác là đảm bảo cho mọi HS có cơ hội học tập để “vươn cao và tạo bước
nhảy”. Học tập cộng tác thường giúp mọi HS đạt đến những mức độ cao của việc
học giống như là có phép màu [5].
- Dạy học theo nhóm hợp tác (nhóm thường) có
một nguy cơ là vì học sinh phân chia vai trò nên có thể xảy ra tình trạng mỗi
người chỉ biết phần việc của mình mà ít có sự chia sẻ, chỉ cuối cùng mới lắp
ghép sản phẩm vào. Như vậy, việc tổ chức nhóm hợp tác thường mang tính hình
thức, chất lượng và hiệu quả việc học chưa cao [5].
- Học tập để “vươn cao và tạo bước nhảy” thông
qua cộng tác [6] “Vươn cao” là HS có thể đạt
đến mức trần tối đa về nhận thức theo khả năng của bản thân.
VD: HS gặp khó khăn nhận
thức từ chưa hiểu bài chuyển thành hiểu được bài; từ làm bài sai đến nhận ra và
sửa được cái sai.
“Tạo bước nhảy” là HS có thể vượt trên mức
trần tối đa về nhận thức theo khả năng của bản thân.
VD: HS yếu từ chưa hiểu bài
chuyển thành hiểu được bài và tự giải
thích được theo yêu cầu; từ làm bài sai đến nhận ra và tự sửa được cái sai,
giúp HS khác sửa sai. HS khá giỏi
trở thành “bậc thầy” về nhận thức, có thể giải
thích cho người khác hiểu.
1.3- Sự khác
nhau giữa học tập cộng tác và học tập theo nhóm thường
a- Hoạt động nhóm là gì?
Hoạt động nhóm là một
trong các loại hình tổ chức lớp học trong đó học sinh được trao đổi, thảo luận,
và cộng tác với nhau theo nhóm nhỏ để hoàn thành một nhiệm vụ học tập nhất
định.
Mục đích của hoạt động
nhóm không phải để thống nhất ý kiến của
cả nhóm mà để giúp mỗi học sinh trở nên độc lập và hiểu những điều các em chưa
hiểu hoặc cảm thấy khó hiểu nhờ sự giúp đỡ của các bạn khác [5].
b- Học tập cộng tác là học tập theo nhóm. Tuy
nhiên, học
tập cộng tác khác với học tập nhóm hợp tác (nhóm thường). Cụ thể:
Học tập theo nhóm truyền
thống |
Học tập cộng tác (hoặc nhóm cộng tác) |
-
Cách hình thành: Do GV chỉ định cụ thể; HS
không tự thực hiện nếu GV không chỉ định. Hoạt động nhóm tách rời các hình thức hoạt động học
tập khác (như học cá nhân, học cả lớp) [2]. |
- Cách hình thành: Tự hình thành hoặc do
GV tổ chức theo thiết kế. Hoạt động nhóm gắn liền và xen kẽ với hoạt động tự
học của cá nhân. Để có
những hoạt động học tập cộng tác mang tính thách thức, giáo viên phải chuẩn
bị trước về thiết kế/ dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra. |
-
Số HS/nhóm: nhóm đôi (2 HS) và nhóm
nhiều HS (phổ biến 5-6 HS) |
-
Số HS/nhóm: nhóm đôi (2 HS) và nhóm 3-4
HS |
- Thành phần nhóm: Không xác định. Hai yếu tố cần
thiết cho sự thành công của hoạt động nhóm là sự an toàn và sự thách
thức[2]. Các nhóm sẽ làm
việc tốt nhất, cho dù là thành phần như thế nào, nếu như trẻ trở thành đồng
đội tốt của nhau và hài hoà được kĩ năng để thực hiện nhiệm vụ của
nhóm [2]. |
- Thành phần nhóm: Nếu là nhóm 3-4 thì cần cả nam và nữ. Hai
yếu tố cần thiết: (1) An toàn, chấp nhận và tôn trọng lẫn nhau, lắng nghe,
thoải mái, tự nhiên; (2) Thói quen sẵn sàng chủ động hỏi-phản hồi, giúp đỡ;
có “sự quan tâm điềm tĩnh”.
|
-
Mong muốn của GV: Nhấn mạnh đến tính thống
nhất của nhóm [2]. GV tìm kiếm sự thống nhất ý kiến của HS trong nhóm, yêu
cầu HS nêu ý kiến với tư cách là đại diện nhóm [2]. |
-
Mong muốn của GV: HS được đảm bảo cơ hội học
tập. Các HS trong nhóm được khuyến khích tìm kiếm các ý kiến và suy nghĩ đa
dạng [1]. Nếu ý kiến giống nhau thì được khuyến khích có cả ý kiến riêng của cá nhân, đề cao tính đa dạng của các ý kiến (tôn trọng nhân cách, khơi dậy
sự sáng tạo, sự khác biệt giữa người này với người khác, dù là rất nhỏ...). |
- Việc học diễn ra trong sự thống nhất và là sản phẩm thường là của chung [2], ít đa dạng. Dạy học hợp tác
theo nhóm nhấn mạnh đến mục tiêu hoạt động chung của nhóm, mức độ phối hợp giữa các thành viên,
đòi hỏi sự phân công trách nhiệm giữa các thành viên rõ ràng
và yêu cầu có sản phẩm
chung [2]. Vấn đề
nảy sinh: HS được khuyến khích thách thức bằng thi đua tốc độ/ đúng sai...nên
một số HS nổi trội lấn át HS khác (có
thể HS không tham gia học). |
- Việc học không diễn ra trong sự thống nhất mà là sản phẩm của sự đa dạng
và sự khác biệt [1]. HS phát triển được các năng lực qua sự tương
tác.
Không khuyến khích thi đua/ khuyến khích HS học với tốc
độ riêng/có suy nghĩ riêng/ giúp đỡ nhau... |
- Các bước tổ chức hoạt động nhóm [2]: Bước 1: Chuẩn bị hoạt động nhóm Bước 2: Tiến
hành hoạt động nhóm Bước 3: Tổng
kết hoạt động nhóm
Thời gian hoạt động của HS: do GV quy định/HS thường
không được chủ động về thời gian từ bắt đầu-thực hiện-kết thúc. |
- Các bước tổ chức hoạt động nhóm: + Trường hợp 1: Có các bước chung: (1) chuẩn bị (câu hỏi, đồ dùng học
tập, ...); (2) tiến hành hoạt động nhóm (học sinh làm việc nhóm); và (3) thảo
luận cả lớp (chỉ cần gọi 2-3 nhóm có ý tưởng hay, lạ, có sự hiểu lầm hoặc chưa
làm xong [5]. + Trường hợp 2: Không có
bước cụ thể. Hoạt động nhóm được hình thành/kết thúc tự nhiên, tùy
theo các tình huống thực tế việc học
của HS. VD: học sinh tự đề nghị bạn giúp đỡ hoặc chủ động giúp đỡ bạn khi học
cá nhân. Thời gian hoạt động của HS: do GV quy định (ít khi)/HS
chủ động và linh hoạt từ bắt đầu-thực hiện-kết thúc (nhiều hơn). (xem
thêm ở phần sau) |
- Vai trò của GV
trong hoạt động nhóm [2] + Cung cấp nhiệm vụ và tạo điều kiện để nhóm hoàn thành
nhiệm vụ. + Cân nhắc việc chia nhóm, thay đổi nhóm, tạo nhóm mới
để đảm bảo 2 yếu tố an toàn và thách
thức trong hoạt động nhóm. + Quản lí hoạt động nhóm (quan sát quá trình hoạt động
nhóm, hỗ trợ và hướng dẫn khi cần thiết, khen ngợi và động viên HS). |
- Vai trò của GV
trong hoạt động nhóm + Giao nhiệm vụ có thách thức với HS (cá nhân). + Tạo điều kiện: công cụ/bố trí ngồi/thời gian/khích
lệ... + Đảm bảo cho mọi HS được tham gia học thực sự [1].
+ GV có cơ hội để giúp đỡ HS khó khăn/giải quyết các
tình huống nảy sinh. (xem thêm ở phần sau) |
- Vai trò của HS trong hoạt động nhóm [2] +
Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm. |
- Vai trò của HS trong hoạt động nhóm + Chủ động hỏi, đề nghị giúp đỡ (HS gặp khó khăn, chưa
hiểu bài); đưa ra câu hỏi (với bất kỳ HS nào). Khi đó, HS vượt qua khó khăn,
học sâu. + Chủ động giúp đỡ, hướng dẫn bạn học (HS được đề nghị).
HS giúp bạn với vai trò là “người dạy” nên phát triển năng lực cao hơn. + HS cùng nhau giải quyết vấn đề, hoặc thực hiện nhiệm
vụ của GV để “vươn cao và tạo bước nhảy” (hoặc câu hỏi của HS khác). + Chia sẻ ý kiến cá nhân (nếu GV yêu cầu hoặc HS có nhu
cầu). |
2- Làm thế nào
để tổ chức học tập cộng tác?
2.1- Thiết kế bài học:
- Mục tiêu bài học cần có yêu cầu cao, sát từng
đối tượng HS.
- Nhiệm vụ học tập với HS cần đảm bảo các mức độ
[5]:
(1) Mức độ của nội dung học bình thường (theo chuẩn KT-KN, SGK).
Có cả những câu hỏi, thắc mắc do các em thuộc
nhóm “yếu kém” đưa ra (do HS hoặc GV đưa
ra).
(2) Mức độ của nội dung học cao hơn (do GV đưa ra).
- Tiến trình bài học để HS học tập chủ động và
tích cực là các hoạt động học tập như: trải nghiệm/khám phá/thực hành/giải
quyết vấn đề,... [2].
- Chuẩn bị các tư liệu, công cụ và đồ dùng học
tập hỗ trợ HS hoạt động nhóm thuận lợi
- GV là người hướng dẫn HS học: Chú ý lắng nghe HS phát biểu ý kiến/Tìm mối liên hệ giữa các ý tưởng/Tìm
lí do cho hành động của HS, tìm hiểu suy nghĩ của HS (yêu cầu học sinh giải
thích câu trả lời)/Quay lại các phần trước khi HS chưa hiểu bài/Giúp HS tìm
tòi/Kiên trì chờ đợi [1].
2.2- Bố trí lớp học:
- Kê bàn ghế cố
định theo nhóm: 2 bàn với 4 HS.
- Luân phiên HS giữa các nhóm.
- Bố trí chỗ ngồi xen kẽ HS theo giới và theo năng
lực.
- Tổ chức Hội đồng tự quản/bố trí các góc học
tập.
2.3- Xây dựng mối quan hệ học tập (HS-HS, HS-BH) và giảng
dạy (GV-HS, GV-BH) như thế nào?
- GV tạo dựng mối quan hệ học tập
chứ không phải mối quan hệ giảng dạy. Mối quan hệ giảng dạy là mối quan hệ một chiều, thụ động,
thiếu sự phối hợp giúp đỡ và cộng tác giữa các HS với nhau [1].
Mối quan hệ học tập là mối
quan hệ học bằng giao tiếp tự nhiên, bằng “sự quan tâm điềm tĩnh” (HS chưa hiểu
bài chủ động hỏi HS đã hiểu
bài, HS hiểu bài chủ động, chân thành, tận tình giúp bản hiểu bài).
“Sự quan tâm điềm tĩnh” này tạo nên mối
quan hệ học tập, và mối quan hệ này lại bồi dưỡng và phát huy học tập cộng tác.
Rèn luyện cho HS thói quen chủ động, thường
xuyên hỏi bạn học “Mình có thể làm bài này bằng cách nào?”. HS cần thành thục
trong việc đặt câu hỏi “Mình có thể làm bài này bằng cách nào?”.
Thay đổi thói quen HS tự
mình cố giải quyết vấn đề và khó khăn để các em không bị tách khỏi HS khác,
tránh được thất bại trong việc học và tụt lại phía sau.
- GV cần nhận thấy hết được sự khác biệt giữa mối quan hệ
giảng dạy và mối quan hệ học tập.
GV quyết tâm và biết cách từ bỏ mối quan hệ giảng dạy. Từ bỏ cách nói: “Khi nào các em làm
xong bài thì hãy giúp đỡ những bạn chưa làm xong” hoặc “Hãy thảo luận theo nhóm
đi”. Cần nói: “Nếu các em không hiểu thì không nên cố gắng suy nghĩ một mình
nữa mà hãy hỏi những bạn xung quanh”.
Nếu
HS đề nghị GV giúp đỡ, cần tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của HS đó mà nên giúp
em đó liên hệ với các em khác trong nhóm (trước hết HS cần tham khảo ý kiến của
các bạn xung quanh, sau đó nếu vẫn chưa giải quyết được vấn đề thì mới hỏi GV).
- GV quyết tâm chuyển sự quan tâm “các bước” của “bài học”
sang chú trọng vào “việc học” của từng HS. Mục
tiêu của “bài học” cần phải nhằm đạt được “việc học” của từng HS trong lớp chứ
không phải các khâu bước lên lớp [6].
- GV cũng xây dựng các mối quan hệ khác như giao tiếp, chấp
nhận, tôn trọng, lắng nghe, tin tưởng, yên tâm,... giữa GV-HS, HS-HS [1]. Các mối quan hệ này cần thực sự tự nhiên và dần dần tiến
đến bền vững.
2.4- Giải quyết tình trạng HS nói chuyện riêng hoặc
ngồi chờ
- GV từ bỏ thói quen nói quá nhiều và nói những điều không cần thiết.
- Nâng cao nhiệm vụ
học tập của HS (nếu quá dễ, HS chủ quan, sớm hoàn thành, nói chuyện riêng hoặc
ngồi chờ).
- Không để thời gian bài học bị kéo dài, HS chán
mỏi.
- GV cần nhớ nhiệm vụ của mình không phải là tiến hành các bài học theo nội
dung của sách giáo khoa mà là tạo ra được việc học cho từng HS một [1].
- Sắp xếp các chủ đề bài học sao cho khoa học, bao gồm
các chủ đề bài học có thể dạy với tốc độ nhanh, và các chủ đề cần có đủ thời
gian để dạy; trong mỗi bài học cần đề ra các nhiệm vụ học tập ở mức độ cao hơn [1].
2.5- Đánh giá, xếp loại kết quả học tập như thế
nào?
GV nên quan tâm và thay đổi cách thức đánh giá,
nhận xét kết quả học tập của HS từ khâu
thiết kế đến khâu tiến hành bài học cả sau khi tiến hành bài học. Cụ thể:
- Nội dung: toàn
diện về năng lực và thái độ học
tập; chú trọng cả mức độ và những sự thay đổi, sự khác biệt. Trọng tâm: cả quá trình và kết quả học tập.
- Hình thức: chủ yếu bằng nhận xét (qua quan sát
việc học, sản phẩm, bài làm, ý thức liên hệ việc học hỏi ở gia đình...).
- Phạm vi/đối tượng: riêng từng em HS và trong
từng bài học cụ thể (chú ý trong suốt quá trình theo năm học, cả ở trong nhóm/lớp/nhà).
3- Tổ chức học
tập cộng tác như thế nào?
3.1- Chia nhóm
như thế nào?
- Nên chia mỗi nhóm gồm 4 HS bao gồm cả
nam và nữ. Có cả HS nam và HS nữ trong cùng một nhóm là điều cần thiết để kích
thích khả năng suy nghĩ có tính cộng tác của các em. Nếu các nhóm chỉ bao gồm
hoặc nam hoặc nữ thì HS sẽ nói chuyện riêng với nhau chứ hầu như không học. 4 HS
một nhóm là thích hợp nhất để cho tất cả các thành viên lắng nghe nhau và học
tập lẫn nhau. Đặc biệt, GV hoặc HS không nên chỉ định nhóm trưởng khi tổ
chức nhóm [5].
- Cách tốt nhất để tiến hành học tập cộng tác là
chia nhóm một cách ngẫu nhiên. Khi chia nhóm thì chú ý để không tạo ra khoảng cách về khả năng của HS giữa các nhóm.
- Cách chia nhóm: rút thăm, điểm số, chọn mẫu.v.v.
- Nên chia lại nhóm sau một khoảng thời gian
nhất định.
* Lưu ý: Lớp 1, HS còn nhỏ nên GV và mỗi HS
cần phải có một mối quan hệ gần gũi, yên tâm để học tập. Tuy nhiên GV có thể
cho HS trải nghiệm dần thói quen hỏi-giúp đỡ bạn học. Nếu có, lớp 1 nên tổ chức nhóm
đôi, có thể câu hỏi phải chẻ nhỏ ra để các em dễ giải quyết [5].
3.2- Khi nào
thì nên bắt đầu việc học nhóm ?
- Có 2 nhiệm vụ với GV: Trước tiên, GV cần “làm cho việc học cá nhân trở nên có tính
cộng tác”. Tiếp theo, tạo cho HS “vươn cao và tạo bước nhảy trong học tập
cộng tác” [1].
Việc học cá
nhân:
đây là hoạt động chủ yếu, tất yếu của riêng mỗi HS trong tất cả các bài học. Việc học cá nhân có tính cộng tác: HS
học cá nhân nhưng luôn có “sự quan tâm điềm tĩnh”, sẵn sàng hỏi, nhờ giúp đỡ/
phản hồi, tương tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Vươn cao và tạo
bước nhảy:
với HS khó khăn/ với HS khá giỏi đều “vượt lên chính mình”.
- Tình huống 1: Khi có bất cứ một HS nào không
hiểu bài hoặc gặp khó khăn trong nhóm (cộng tác nhỏ, xen lẫn học cá nhân).
- Tình huống 2: Khi có nhiều HS trong nhóm, trong lớp không hiểu bài, GV nên ngay lập tức
cho HS tạo thành nhóm để tiến hành học tập cộng tác. Quan trọng là GV
biết tận dụng cơ hội “nhiều HS không hiểu bài”.
- Tình huống 3: Khi có nảy sinh “tình huống có
vấn đề”, có “sự khác biệt giữa các HS” cần xem xét và giải quyết.
- Tình huống 4: Khi HS đang tự học cá nhân nhưng
cần giúp đỡ của bạn học hoặc thấy cần phải giúp đỡ bạn học.
(khi bắt đầu có thể do GV chỉ định hoặc do HS tự
bắt đầu)
3.3- Khi nào
thì kết thúc việc học nhóm ?
- Vấn đề “khi nào thì kết thúc” cũng quan trọng
như “khi nào thì bắt đầu”.
- GV chỉ cần quan sát HS,
nếu các em tập trung thảo luận thì có nghĩa là các em đang học thực sự, còn nếu
các em không thể tập trung thảo luận hoặc bắt đầu nói chuyện riêng thì có nghĩa
là các em không thể học thực sự. Cần kết thúc hoạt động học tập theo nhóm
ngay trước khi xảy ra tình huống đó [1].
- Mặc dù GV chỉ định
dành 5 phút cho hoạt động nhóm nhưng nếu HS sẵn sàng học thì nên dành
cho hoạt động đó 15 phút (và ngược lại) [1].
(khi kết thúc có thể do GV chỉ định hoặc do HS
tự kết thúc)
3.4- GV cần làm
gì khi HS học nhóm ?
a- Trong khi HS học nhóm, có 2 việc GV cần làm
là:
- Việc 1: GV ưu tiên quan sát những HS không thể tham gia vào việc học nhóm. Khi có tình
huống này, GV cần tạo ra một mối liên hệ
giữa những HS không thể tham gia hoạt động nhóm với những HS khác trong nhóm [5].
Nếu HS không thể tham gia học nhóm 4 em thì ảnh
hưởng tiêu cực của điều đó đến HS còn lớn hơn nhiều so với những hậu quả của
việc không thể tham gia nghe giảng cả lớp.
-
Việc 2: GV cần quan sát bao quát hết các nhóm, quan sát đến từng HS và tác động
giúp đỡ nếu thấy thật cần thiết. Nếu GV hỗ trợ và thấy HS trong nhóm đã bắt đầu
học thì GV có thể để các em tự tiếp tục
hoạt động nhóm. GV nên tránh can thiệp quá chi tiết hoặc không cần thiết [5].
Trong khi HS hoạt động học tập trong nhóm, GV không có thái độ thờ ơ phó mặc
hoặc làm việc riêng của mình. GV nắm bắt các “vấn đề” trong nhận thức của các
HS để quyết định can thiệp, xử lý phù hợp và kịp thời.
Sau
khi HS thảo luận xong, cần để HS trình bày ý kiến tự do cá nhân (không đại
diện) [5].
Nếu
HS trả lời dễ dàng, GV có thể đào sâu, phát triển nhận thức bằng cách liên kết
ý kiến các nhóm/cá nhân HS. Hoặc nếu xuất hiện vấn đề mới về nhận thức (liên
quan bài học), GV có thể yêu cầu HS tiếp tục giải quyết (rộng hơn, sâu hơn).
Nếu
nhận thức của HS chưa đảm bảo yêu cầu (sai, chưa sâu), GV cần giao nhiệm vụ,
câu hỏi mới hoặc quay trở lại phần HS chưa hiểu bài và để HS tiếp tục thảo luận
[1].
* Lưu ý: Trong hoạt
động nhóm, việc học tập đa dạng và có chiều sâu sẽ xảy ra cùng một lúc,
cho nên GV có thể không hiểu hết các ý kiến đa dạng
của mỗi cá nhân HS.
b- GV cần can thiệp đúng lúc và đúng cách [5]
- Khi học sinh bắt đầu
hoạt động nhóm, giáo viên tránh việc đi sâu xuống các nhóm ngay lập tức mà nên
đứng ở góc phía bên trên của lớp học gần cửa ra vào để quan sát học sinh.
- Khi nhận thấy có học
sinh không thể gia vào nhóm, giáo viên cần khuyến khích em đó trao đổi với các
bạn trong nhóm. Giáo viên chờ cho đến khi em đó bắt đầu tham gia thì mới chuyển
qua các nhóm khác.
- Ngược lại, nếu giáo
viên nhận thấy có một học sinh chiếm lĩnh cả nhóm hoặc giành hết cơ hội phát
biểu ý kiến về mình thì giáo viên khéo léo mời các em khác cùng chia sẻ ý kiến
- Nếu có một nhóm gặp
khó khăn trong việc tìm ra câu trả lời, hoặc cách giải quyết nhiệm vụ được
giao, giáo viên có thể tách nhóm đó ra và mỗi thành viên trong nhóm gia nhập
một nhóm khác.
- Giáo viên cũng can
thiệp khi nhóm không có sự tiến triển, không có thành viên nào trong nhóm có
thể trả lời câu hỏi, các thành viên gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nhau,
và có những thành viên thống trị nhóm ngăn cản sự đối thoại thực sự.
- Giáo viên chú ý lắng
nghe học sinh thảo luận trong nhóm để nhận biết những khó khăn của từng nhóm
trước khi quyết định đưa ra câu hỏi hoặc gợi ý.
- Giáo viên tránh giúp
đỡ trực tiếp cho các nhóm.
4- Các câu hỏi khác [5]
Hỏi: Hoạt động nhóm của HS thường diễn ra theo tiến trình nào?
Đáp: Xem sơ đồ sau:
Giáo viên |
|
Học sinh |
1. Giao nhiệm vụ |
|
1. Tiếp nhận nhiệm vụ |
2. Quan sát, chờ đợi, hỗ trợ riêng (hạn chế) |
|
2. Học cá nhân |
3. Quan sát, chờ đợi, hỗ trợ riêng (hạn chế) |
|
3. Học nhóm 2 em |
4. Quan sát, chờ đợi, can thiệp vào nhóm (hạn
chế) |
|
4. Học nhóm rộng hơn (nhiều em hoặc cả nhóm) |
5. Cho HS trình bày, lắng nghe, tóm tắt (hoặc
xác định điểm khác biệt/vấn đề) |
|
5. Trình bày kết quả từng nhóm |
6. Liên kết ý kiến các nhóm/xem xét lại/đào
sâu/phát triển ý kiến |
|
6. Nêu thêm ý kiến/phát triển ý kiến hoặc thảo
luận tiếp |
Hỏi: Các tình huống thường xảy ra khi HS học nhóm và ứng xử của
GV như thế nào ?
Đáp: Khi HS học nhóm,
Nếu 1, 2 HS trong 1 nhóm gặp khó khăn
thì GV có thể nhắc HS đó đề nghị bạn bên cạnh giúp đỡ.
Nếu cả nhóm gặp khó khăn thì GV có thể
giúp đỡ riêng nhóm đó nhắc các HS đề nghị nhóm bên cạnh giúp đỡ.
Nếu nhiều nhóm gặp khó khăn thì GV có
thể hướng dẫn chung cả lớp.
-
Hỏi: Vị trí đứng của GV như
thế nào để bao quát được HS khi học nhóm ?
Đáp: GV nên đứng ở hai bên sườn phía trên lớp học để bao quát
HS. Nếu cần, GV có thể đến gần để xem những biểu hiện cụ thể của từng HS. GV có
thể đánh dấu hoặc ghi lại những dấu hiệu khác thường, vấn đề khó khăn từ HS khi
các em học nhóm. Ngoài những vấn đề cần giải quyết, ứng xử ngay, GV đưa ra hoặc
giải quyết vấn đề còn lại sau khi HS thảo luận xong và trình bày ý kiến chung.
-
Hỏi: Cách bố trí chỗ ngồi học
nhóm như thế nào ?
Đáp: GV nên bố trí theo 2 cách:
Cách 1: kê bàn ghế chữ u
và sẵn sàng ghép nhóm 2 bàn làm 1 nhóm.
Cách 2: kê sẵn, cố định
2 bàn với mỗi nhóm 4-6 HS.
Lưu ý: việc chọn HS ngồi
gần nhau trong nhóm cũng cần tính toán cân đối về giới tính, cá tính, sở
trường, năng lực HS.
-
Hỏi: Có cần phân nhóm
trưởng cho mỗi nhóm?
Đáp: Việc phân nhóm
trưởng là không cần thiết. Nếu phân, nhiệm vụ của nhóm trưởng là đảm bảo cơ hội
được nói của từng thành viên.
-
Hỏi: Có nên giao cho cả
nhóm 1 phiếu câu hỏi/phiếu bài tập?
Đáp: Mỗi thành viên
trong nhóm nên có 1 phiếu câu hỏi riêng và cần có suy nghĩ độc lập trước khi
tham gia thảo luận nhóm. Phiếu câu hỏi/phiếu bài tập cần đưa ra các câu hỏi tại
sao, như thế nào. Nếu chỉ yêu cầu học sinh điền thông tin vào chỗ trống thì
việc thảo luận nhóm sẽ không xảy ra.
-
Hỏi: Có nên giao cho cả
nhóm 1 bảng phụ để viết câu trả lời?
Đáp: Không nhất thiết
phải phát 1 bảng phụ cho cả nhóm vì làm như vậy, các nhóm sẽ thống nhất ý kiến,
những hiểu lầm và các lỗi của một vài thành viên trong nhóm sẽ không được phản
ánh. Nếu phát bảng phụ thì các nhóm được yêu cầu viết ra các câu hỏi, những khó
khăn của nhóm.
Các tin khác
- Những điều giáo viên không nói trong buổi họp phụ huynh (09/09/2017)
- THỂ LỆ CUỘC THI CHINH PHỤC VŨ MÔN LẦN THỨ III (08/10/2016)
- KẾ HOẠCH CUỘC THI CHINH PHỤC VŨ MÔN (08/10/2016)
- Cách trang trí lớp học thân thiện cực đáng yêu tạo hứng khới học tập. (08/10/2016)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOIN(TIẾP) (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOINT (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO KHỐI 2 (TIẾP) (20/12/2015)
- KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOIN (TIẾP) (20/12/2015)
- Một vài kinh nghiệm đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 30 (10/10/2015)
- VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN TN&XH, KHOA HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC (21/01/2015)
- “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”. (21/01/2015)