Tin tức : Trao đổi KN - PPDH
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN TN&XH, KHOA HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
TẬP HUẤN CHO SINH VIÊN NGÀNH GDTH
VỀ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” TRONG DẠY
HỌC CÁC MÔN TN&XH, KHOA HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi mà nền kinh tế tri thức đang dần dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên thế giới.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc biệt là đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, khi học sinh đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học. Tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề.
Chương
trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học,
dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học
sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình
tiến hành quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ
lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình thành
khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong,
phương pháp làm việc khi trưởng thành.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh
Hiển nhận định, phương pháp này giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc
như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo, phát hiện, giải quyết vấn đề. Vậy phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột” là
gì?
I. Khái
quát về Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột”
1. Phương
pháp dạy học "Bàn tay nặn bột” là gì?
- Phương pháp dạy học "Bàn
tay nặn bột” (BTNB),
tiếng Pháp
là La main à la pâte - viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp
dạy học khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc
dạy học các môn khoa học tự nhiên.
- Phương pháp này được khởi xướng
bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lý năm 1992).
- Theo phương pháp BTNB, dưới sự
giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được
đặt ra trong
cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
BTNB
chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra...
Với
một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ
những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và
đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp
kiến thức.
Cũng
như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá
trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức
dưới sự giúp đỡ của GV.
Mục tiêu của BTNB là tạo nên
tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú
trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng
diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
2. Lịch sử của phương pháp
“Bàn tay nặn bột”
2.1. Sự ra đời và phát triển
của phương
pháp “Bàn tay nặn bột” ở Pháp
Năm 1995, giáo sư Georges Charpak dẫn một đoàn gồm các nhà khoa học và các đại diện của Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đến một khu phố nghèo ở Chicago, Mỹ nơi có một phương pháp dạy học khoa học dựa trên việc thực hành, thí nghiệm đang được thử nghiệm.
Sau đó một nhóm nghiên cứu thuộc Ban trường học - Bộ Giáo dục quốc gia Pháp được thành lập. Viện nghiên cứu sư phạm quốc gia Pháp được đề nghị làm báo cáo về các hoạt động khoa học vùng Bắc Mỹ và sự tương thích của các hoạt động này với điều kiện ở Pháp (Báo cáo thực hiện vào tháng 12 năm 1995).
Trong năm học 1995-1996, Ban Trường học đã vận động khoảng 30 trường thuộc 3 tỉnh tình nguyện thực hiện.
Tháng 4/1996:
Một hội thảo nghiên cứu được tổ chức tại
Ngày 09/7/1996: Viện Hàn lâm khoa học đã thông qua quyết định thực hiện chương trình.
Tháng 9/1996: Cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành bởi Bộ Giáo dục quốc gia Pháp với cuộc thi giữa 5 tỉnh. Cuộc thi này thu hút 350 lớp. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu tham gia giúp đỡ các giáo viên thực hiện các tiết dạy.
Tính từ đây, phương pháp BTNB được ra đời nhưng đó là một sự kế thừa của các thử nghiệm trước đó. Lịch sử ra đời của nó là cả một quá trình lâu dài.
Tóm lại: BTNB được sự hỗ trợ của Viện hàn lâm khoa
học Pháp với một nhóm chuyên nghiên cứu về phương pháp này, các trung tâm vệ
tinh được thành lập, trang web, kinh nghiệm thực tế của các giáo viên, giảng
viên. Chương trình này được thực hiện đồng thời với nhiều hoạt động.
ü Thành lập một website với hàng nghìn trang tài liệu
ü Thành lập một mạng lưới các trung tâm vệ tinh hỗ trợ giáo viên và các trang web tại các địa phương.
ü Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho các nhà khoa học và các chuyên gia về BTNB trên trang web về những vấn đề liên quan.
ü Thành lập một mạng lưới quốc tế nghiên cứu về phương pháp.
ü Hình thành các giải thưởng dành cho các trường thực hiện BTNB.
ü Hình thành trường mùa đông « Hạt giống khoa học» dành cho GV, chuyên gia làm việc chung với nhau trên một chủ đề khoa học.
Tất cả các chương trình hành động trên đều nhằm
mục đích hỗ trợ, giúp đỡ giáo viên để có thể thực hiện tốt phương pháp BTNB
trong nhà trường.
2.2. Sơ lược tiểu sử của giáo sư G. Charpak
- Người khai sinh phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Georges Charpak là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1992. Georges Charpak sinh ngày 01/08/1924 tại Dabrovica, Phần Lan. Ông học kỹ sư ở trường Mỏ Paris (1948), đây là một trường danh tiếng và uy tín trong hệ thống trường lớn “Grandes écoles” của nước Pháp. G. Charpak bảo vệ luận án Tiến sỹ năm 1955, trở thành nghiên cứu viên của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS) tại phòng thí nghiệm Vật lý hạt nhân của Collègue de France (một trường danh tiếng và uy tín tại Paris). Năm 1959, ông là nghiên cứu viên chính của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), sau đó làm việc tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Châu Âu từ 1963 đến 1989. Năm 1984, ông làm việc tại phòng thí nghiệm Chaire Joliot-Curie của Trường cấp cao Vật lý và Hóa học công nghiệp Paris (ESPCI).
|
Các công trình của Georges Charpak tập trung chủ yếu về Vật lý hạt nhân, Vật lý hạt năng lượng cao. Năm 1995, Georges Charpak kết hợp với Pierre Léna và Yves Quéré đưa ra chương trình BTNB nhằm đổi mới việc giảng dạy khoa học ở trường Tiểu học tại Pháp và các nước Châu Âu. Nhiều hợp tác quốc tế đã được ký kết nhằm mở rộng chương trình này ra nhiều quốc gia trên thế giới. |
|
|
3. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” tại Việt Nam
|
Phương pháp dạy học BTNB được đưa vào Việt Nam là một cố gắng nỗ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam. Hội Gặp gỡ Việt Nam được thành lập vào năm 1993 theo luật Hội đoàn 1901 của Cộng hòa Pháp do Giáo sư Jean Trần Thanh Vân - Việt kiều tại Pháp làm Chủ tịch. Hội tập hợp các nhà khoa học ở Pháp với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục; tổ chức các hội thảo khoa học, trường học về Vật lý; trao học bổng khuyến học, khuyến tài cho học sinh và sinh viên Việt Nam. Phương pháp
BTNB được giới thiệu tại Việt Các đợt tập huấn phối hợp tổ chức bởi Hội Gặp gỡ Việt Nam và các Sở Giáo Dục địa phương.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|
4. Các nguyên tắc của“Bàn tay nặn bột”
Có 10 nguyên tắc
1. Học sinh quan sát một sự vật hay
một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các
em sẽ thực hành trên những cái đó.
2.Trong quá trình tìm hiểu, học sinh
lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và
những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà chỉ những hoạt động, thao
tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
3. Những hoạt động do giáo viên đề
xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ
học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên
và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
4. Cần một lượng tối thiểu là 2
giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và
những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
5. Học sinh bắt buộc có mỗi em một
quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của
chính các em.
6. Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh
dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm
theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
Những đối tượng tham gia.
7. Các gia đình và/hoặc khu phố được
khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
8. Ở địa phương, các cơ sở khoa học
(trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,..) giúp các hoạt động của lớp theo
khả năng của mình.
9. Ở địa phương, các Viện Đào tạo
giáo viên (Trường cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm) giúp các giáo viên về kinh
nghiệm và phương pháp giảng dạy.
10. Giáo viên có thể tìm thấy trên
Internet các website có nội dung về những môđun (bài học) đã được thực hiện,
những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc. Họ cũng có thể tham
gia những hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư
phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và
đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
5. Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn
bột”
“Bàn tay nặn bột” đề xuất một tiến trình ưu tiên xây dựng tri thức bằng khai thác, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ không phải bằng phát biểu lại các kiến thức có sẵn xuất phát từ sự ghi nhớ thuần tuý.
Các bước |
Nhiệm vụ của HS |
Nhiệm vụ của GV |
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
- Quan sát, suy nghĩ. |
- GV chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan đến vấn đề khoa học đặt ra. - Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu… |
Bước 2: Bộc lộ
quan niệm ban đầu của học sinh |
- Bộc lộ quan niệm ban đầu nêu những suy nghĩ từ đó hình thành câu hỏi, giả thuyết. …..bằng nhiều cách nói, viết, vẽ. Đây là bước quan trọng đặc trưng của PP BTNB. |
- GV cần: Khuyến khích HS nêu những suy nghĩ….bằng nhiều cách nói, viết, vẽ. - GV quan sát nhanh để tìm các hình vẽ khác biệt. - GV không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai. |
Bước 3: Đề
xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm |
a. Đề xuất câu hỏi - Từ các khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, HS đề xuất câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. |
- GV giúp học sinh đề xuất câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. - Kiểm soát lời nói, cấu trúc câu hỏi, chính xác hoá từ vựng của học sinh. |
b, Đề xuất phương án thực nghiệm - Bắt đầu từ những vấn đề khoa học được xác định, HS xây dựng giả thuyết. - HS trình bày các ý tưởng của mình, đối chiếu nó với những bạn khác. |
- GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi đó. - GV ghi lại các cách đề xuất của học sinh (không lặp lại). - GV nhận xét chung và quyết định tiến hành PP thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. (Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay đề xuất phương án cụ thể. Chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các ý kiến). |
|
Bước 4: Tiến
hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
HS hình dung có thể kiểm chứng các giả thuyết bằng… …thí nghiệm (Ưu tiên thí nghiệm trực tiếp trên vật thật). …quan sát …điều tra …nghiên cứu tài liệu. - HS sinh ghi chép lại vật liệu thí nghiệm, cách bố trí, và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay hình vẽ). |
- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí nghiệm sau đó mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm - GV bao quát và nhắc nhở các nhóm chưa thực hiện, hoặc thực hiện sai… - GV tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ - GV khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng giả thuyết mà HS đề xuất. - GV không chỉnh sửa cho học sinh |
- HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên cứu tài liệu). |
- GV tập hợp các điều kiện thí nghiệm nhằm kiểm chứng các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất. |
|
Thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trình bày |
- GV giúp HS phương pháp trình bày các kết quả. |
|
Bước 5: Kết
luận và hợp thức hoá kiến thức |
HS kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết mà mình đưa ra. *Nếu giả thuyết sai: thì quay lại bước 3. * Nếu giả thuyết đúng: Thì kết luận và ghi nhận chúng. |
- GV động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình nghiên cứu. - GV giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết luận. - Sau khi thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi dần dần được giải quyết, các giả thuyết dần dần được kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chính xác một cách khoa học. - GV có trách nhiệm tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức bài học. - GV khắc sâu kiến thức bằng cách đối chiếu biểu tượng ban đầu. |
6. Các kỹ thuật dạy học và
rèn luyện kỹ năng cho học sinh trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”
6.1. Tổ chức lớp học
Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định. Sau đây là một số gợi ý để giáo viên sắp xếp bàn ghế, vật dụng trong lớp học phù hợp với hoạt động nhóm:
- Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng học sinh trong lớp.
- Cần chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn thấy rõ thông tin trên bảng.
- Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết.
- Chú ý đảm bảo ánh sáng cho học sinh.
- Đối với những bài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng dạy học cố định.
Không khí làm việc trong lớp học:
- Giáo viên cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một vài học sinh nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công việc của cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác.
- Giáo viên cần tạo được sự thoải mái cho tất cả các học sinh.
6.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu
- Giáo viên cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy.
- Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên giáo viên phải đề nghị học sinh làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu.
- Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, giáo viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó.
6.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận
cho học sinh
Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự thảo luận sôi nổi của lớp học.
Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp học).
Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp học, giáo viên cần chú ý đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động của lớp học được thành công:
- Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt động nhóm cho học sinh.
- Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ nội dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu.
- Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên nên làm chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia. Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học.
- Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Ý đồ dạy học theo phương pháp BTNB sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất để từ đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu.
- Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng, lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh xoáy sâu thêm suy nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng mới.
- Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học.
6.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn
tay nặn bột”
Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh.
Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra giấy (viết lên áp-phích) của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình. Mấu chốt quan trọng nhất là các học sinh trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi nổi, các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết chia sẻ đồ dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của nhóm, các ý kiến chưa thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung của nhóm sau thảo luận trước tập thể lớp là một nhóm hoạt động đúng yêu cầu.
Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên nên di chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. Giáo viên không nên đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học sinh hoạt động nghiêm túc hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng.
6.5. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên
Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt ý đồ dạy học. Một câu hỏi tốt là một câu hỏi kích thích, một lời mời đến sự kiểm tra chăm chú nhiều hơn, một lời mời đến một thí nghiệm mới hay một bài tập mới… Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở". Các câu hỏi "mở" khuyến khích học sinh suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu hỏi đó. Các câu hỏi dạng này cũng mang đến cho nhóm một công việc và một sự lập luận sâu hơn. Còn các câu hỏi "đóng" là các câu hỏi yêu cầu một câu trả lời ngắn.
Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng.Và các câu hỏi đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và bắt buộc phải là những câu hỏi "mở".
6.5.1. Câu hỏi nêu vấn đề
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. Là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề thường là câu hỏi nhằm mục đích hình thành biểu tượng ban đầu của học sinh. Giáo viên phải đầu tư suy nghĩ và cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi nêu vấn đề vì chất lượng của câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học.
6.5.2. Câu hỏi gợi ý
Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi "đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh.
Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như "Theo các em", "Em nghĩ gì…", "Theo ý em…"… vì các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu học sinh đưa ra một câu trả lời chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến, đưa ra nhận định của các em mà thôi.
6.6. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp “Bàn
tay nặn bột”
Vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh được phân thành hai mảng chính đó là rèn luyện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Dạy học theo phương pháp BTNB là sự hòa quyện 3 phần gần như tương đương nhau đó là thí nghiệm, nói và viết. Học sinh không thể làm thí nghiệm mà không suy nghĩ và các em thể hiện suy nghĩ bằng cách thảo luận (nói) hoặc viết.
- Nói: Phương pháp BTNB khuyến khích trao đổi bằng ngôn ngữ nói về những quan sát, những giả thuyết, những thí nghiệm và những giải thích. Một số học sinh có khó khăn về ngôn ngữ nói trong một số lĩnh vực nào đó đã phát biểu ý kiến một cách tự giác hơn khi các thao tác trong hoạt động khoa học bắt buộc chúng phải làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện tượng tự nhiên. Học sinh học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe người khác, biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích chung của một khuôn khổ nhất định.
- Viết: Văn phong (lối viết) là cách thức thể hiện ra ngoài những hoạt động suy nghĩ của mình. Nó cũng cho phép giữ lại dấu vết của các thông tin đã thu nhận được, tổng hợp và hình thức hóa để làm nảy sinh ý tưởng mới. Nó cũng làm cho thông báo được dễ dàng tiếp nhận dưới dạng đồ thị vì thông tin đôi khi khó phát biểu và cho phép ghi lại các kết quả tranh luận.
- Chuyển từ nói sang viết: Chuyển từ một cách thức thông báo này sang một cách thức thông báo khác là một giai đoạn quan trọng. Phương pháp BTNB đề nghị dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách thức viết khác nhau.
6.7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh
Khi chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của học sinh giáo viên cần chú ý những điểm sau:
- Cho học sinh phát biểu ý kiến tự do và tuyệt đối không nhận xét đúng hay sai các ý kiến đó ngay sau khi học sinh phát biểu.
- Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt, giáo viên nên ghi chú lại ở một góc trên bảng để học sinh dễ theo dõi.
- Đối với những biểu tượng ban đầu được học sinh trình bày bằng hình vẽ, sơ đồ… thì giáo viên quan sát và chọn một số hình vẽ tiêu biểu, có những điểm sai lệch nhau rõ rệt để dán lên bảng, giúp học sinh dễ so sánh, nhận xét.
- Khi yêu cầu học sinh trình bày, nên cho những học sinh có ý tưởng sai lệch nhiều với kiến thức đúng trình bày trước, những học sinh có ý kiến tốt hơn trình bày sau. Giáo viên không nhận xét ý kiến của học sinh khi học sinh phát biểu. Từ các sự khác biệt của các ý tưởng sẽ giúp học sinh thắc mắc vậy ý tưởng nào là đúng, làm sao để kiểm chứng nó… Đó là mâu thuẫn nhận thức để giúp học sinh đề xuất ra các thí nghiệm kiểm chứng hoặc các phương án tìm ra câu trả lời.
- Khi yêu cầu học sinh phát biểu, nêu ý kiến (ý tưởng), giáo viên cần chú ý về mặt thời gian, hướng dẫn học sinh cách trả lời thẳng vào câu hỏi, không kéo dài, trả lời vòng vo mà cần trả lời gắn gọn đủ ý. Làm như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian của tiết học, đồng thời sẽ giúp học sinh rèn luyện được suy nghĩ, ý tưởng của mình về mặt ngôn ngữ.
- Khi yêu cầu học sinh khác nhận xét ý kiến của học sinh trước, giáo viên nên yêu cầu học sinh nhận xét theo hướng "đồng ý và có bổ sung" hay "không đồng ý và có ý kiến khác" chứ không nhận xét "ý kiến bạn này đúng, bạn kia sai".
- Giáo viên cần tóm tắt ý tưởng của học sinh khi viết ghi chú lên bảng.
6.8. Hướng dẫn học sinh đề xuất
thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời
Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội dung của bài học. Tùy từng trường hợp cụ thể mà giáo viên có phương pháp phù hợp, tuy nhiên cần chú ý mấy điểm sau:
- Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học sinh đề xuất
- Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tựong ban đầu) của học sinh, vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời.
- Đối với học sinh tiểu học, giáo viên nên giúp các em suy nghĩ đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những thí nghiệm phúc tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với học sinh.
- Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý để học sinh tự rút ra nhận
xét và loại bỏ phương án. Giáo viên cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét.
- Giáo viên cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống học sinh không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít, nghèo nàn về ý tưởng (đối với những trường hợp có nhiều phương án tìm câu trả lời). Với trường hợp này giáo viên chuẩn bị sẵn một số phương án để đưa ra hỏi ý kiến của học sinh.
6.9. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm
Vở thí nghiệm không phải là vở nháp cũng không phải là vở ghi chép thông thường của học sinh.
Vở thí nghiệm không phải là cuốn vở để giáo viên dùng để sửa lỗi của học sinh mà nhằm mục đích chính là để học sinh tự do diễn đạt suy nghĩ, ý kiến của mình thông qua ngôn ngữ viết.
Vở thí nghiệm được lưu giữ và được giáo viên xem xét như là một phần biểu hiện sự tiếp thu kiến thức, thái độ học tập, làm việc của học sinh. Thông qua vở thí nghiệm, giáo viên có thể nhìn nhận được quá trình tiến bộ của học sinh trong học tập. Giáo viên, phụ huynh có thể nhìn vào các ghi chú để tìm hiểu xem học sinh có hiểu vấn đề không, tiến bộ như thế nào (so với trước khi học kiến thức), có thể nhận thấy những vấn đề học sinh chưa thực sự hiểu. Và thậm chí học sinh có thể nhìn lại những phần ghi chú để nhận biết mình đã tiến bộ như thế nào so với suy nghĩ ban đầu, giúp học sinh nhớ lâu hơn và hiểu sâu hơn kiến thức.
Vở thí nghiệm là một đặc trưng quan trọng trong thực hiện phương pháp BTNB. Thông qua việc ghi chép trong vở thí nghiệm, học sinh được tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và giáo viên cũng giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ viết thông qua cuốn vở này.
6.10. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin,
hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận
Khi làm thí nghiệm hay quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi. Đối với học sinh tiểu học vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Học sinh cần được hướng dẫn làm quen dần dần.
Giáo viên cần chú ý mấy điểm sau:
- Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn.
- Quan sát, bao quát lớp khi học sinh làm thí nghiệm. Gợi ý vừa đủ nghe cho nhóm khi học sinh làm sai lệnh hoặc đặt chú ý vào những chỗ không cần thiết cho câu hỏi. Không nên nói to vì sẽ gây nhiễu cho các nhóm học sinh khác đang làm đúng vì tâm lý học sinh khi nghe giáo viên nhắc thì cứ nghĩ là giáo viên đang hướng dẫn cách làm đúng và nghi ngờ vào hướng thực hiện mà mình đang làm.
- Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau học sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em, giáo viên không được nhận xét đúng hay sai và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai. Khuyến khích học sinh độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo nhau.
6.11. So sánh kết quả thu nhận được và đối
chiếu với kiến thức khoa học
Trong hoạt động học của học sinh theo phương pháp BTNB, học sinh khám phá các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên theo con đường mô phỏng gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học. Học sinh đưa ra dự đoán, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với nhau và đưa ra kết luận như công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến thức. Giáo viên ngoài việc hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức, cũng nên giới thiệu thêm sách, tài liệu hay thông tin trên internet mà học sinh có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp các em hiểu sâu hơn các kiến thức được học, không bằng lòng và dừng lại với những hiểu biết yêu cầu trong chương trình. Điều này rất cần thiết đối với các học sinh khá, giỏi, học sinh ham thích tìm hiểu.
Sự hướng dẫn này chỉ là gợi ý cho những học sinh ham thích tìm hiểu chứ không phải là một yêu cầu bắt buộc cho cả lớp. Về nguyên tắc, học sinh hiểu và nắm bắt được các kiến thức yêu cầu ở mức độ của chương trình đưa ra là đủ.
6.12. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn
tay nặn bột”
Một số gợi ý để giáo viên áp dụng đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB, tùy hoàn cảnh trong quá trình dạy học.
- Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học.
- Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm.
- Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thí nghiệm.
Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp BTNB là giúp cho học sinh rèn luyện các kỹ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kỹ năng, kiểm tra năng lực nhận thức (sự hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức.
7. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học
- Liệt kê các bài học có thể áp dụng phương pháp BTNB.
- Giáo viên cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như
mong muốn.
- Vận dụng tối đa những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm.
- Sử dụng CNTT cho bài dạy áp dụng phương pháp BTNB đúng lúc, đúng chỗ,
hợp lí.
- Với một số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh
bằng những phiếu giao việc, tự học sinh chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của
mình.
* Xây dựng tiết học theo các gợi ý:
- Mục tiêu bài học.
- Hoạt động có thể áp dụng phương pháp BTNB.
- Phương pháp thí nghiệm sử dụng.
- Thiết bị cần có.
- Những thí nghiệm có thể thực hiện.
* Tổ chức lớp học:
- Sắp xếp bàn ghế cho phù hợp với số học sinh.
- Chia nhóm từ 4-6
em/nhóm.
- Có chỗ dành riêng
để vật liệu lớp học.
* Trong quá trình
giảng dạy
Lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu
để đưa ra thảo luận:
- Không chọn hoàn toàn các quan niệm
đúng
- Tuyệt đối không bình luận hay nhận
xét gì về tính đúng sai của các ý kiến ban đầu
- Lựa chọn các quan niệm vừa đúng vừa
sai
- Chọn vị trí thích hợp đề gắn các
bài vẽ của học sinh…
+ Không nên sử dụng
SGK khi học bằng phương pháp BTNB.
+ Không nêu tên bài
học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung bài học ở đề bài).
+ Lựa chọn
hoạt động phù hợp với phương
pháp BTNB để áp dụng, không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp.
+ Lưu ý về Kĩ thuật thảo luận nhóm
* Lựa chọn phương pháp thí nghiệm phù hợp:
- Phương pháp quan sát tranh ảnh,
quan sát vật thật
- Phương pháp mô hình
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thí nghiệm trực tiếp
- Sử dụng phương pháp thường xuyên để rèn
thói quen cho học sinh. Rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn để
đảm bảo thời gian. Sưu tầm tài liệu, sách, tranh ảnh …. phục vụ cho bài học.
II. Khả năng vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn
bột” trong dạy học các môn TN&XH và Khoa học ở trường Tiểu học
1. Các bài trong môn TN&XH, Khoa học có thể
áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
STT |
LỚP |
BÀI |
TÊN BÀI DẠY |
1. |
1 |
22 |
Cây
rau |
2. |
1 |
23 |
Cây hoa |
3. |
1 |
24 |
Cây gỗ |
4. |
1 |
25 |
Con cá |
5. |
1 |
26 |
Con gà |
6. |
1 |
27 |
Con mèo |
7. |
1 |
28 |
Con
muỗi |
8. |
1 |
31 |
Thực hành: quan sát bầu trời |
9. |
1 |
32 |
Gió |
10. |
2 |
1 |
Cơ quan vận động |
11. |
2 |
2 |
Bộ xương |
12. |
2 |
3 |
Hệ cơ |
13. |
2 |
5 |
Cơ quan tiêu hoá |
14. |
2 |
6 |
Tiêu hoá thức ăn |
15. |
2 |
24 |
Cây sống ở đâu? |
16. |
2 |
25 |
Một số loài cây sống trên cạn |
17. |
2 |
26 |
Một số loài cây sống dưới nước |
18. |
2 |
27 |
Loài vật sống ở đâu? |
19. |
2 |
28 |
Một số loài vật sống trên cạn |
20. |
2 |
29 |
Một số loài vật sống dưới nước |
21. |
2 |
31 |
Mặt trời |
22. |
2 |
32 |
Mặt trời và phương hướng |
23. |
2 |
33 |
Mặt trăng và các vì sao |
24. |
3 |
1 |
Hoạt động thở và cơ quan hô hấp |
25. |
3 |
6 |
Máu và cơ quan tuần hoàn |
26. |
3 |
7 |
Hoạt động tuần hoàn |
27. |
3 |
10 |
Hoạt động bài tiết nước tiểu |
28. |
3 |
12 |
Cơ quan thần kinh |
29. |
3 |
13+14 |
Hoạt động thần kinh |
30. |
3 |
40 |
Thực vật |
31. |
3 |
41+42 |
Thân cây |
32. |
3 |
43+44 |
Rễ cây |
33. |
3 |
45 |
Lá cây |
34. |
3 |
46 |
Khả năng kì diệu của lá cây |
35. |
3 |
47 |
Hoa |
36. |
3 |
48 |
Qủa |
37. |
3 |
50 |
Côn trùng |
38. |
3 |
51 |
Tôm, cua |
39. |
3 |
52 |
Cá |
40. |
3 |
53 |
Chim |
41. |
3 |
58 |
Mặt trời |
42. |
3 |
60 |
Sự chuyển động của trái đất |
43. |
3 |
61 |
Trái đất là 1 hành tinh trong hệ mặt trời |
44. |
3 |
62 |
Mặt trăng là vệ tinh của Trái đất |
45. |
3 |
63 |
Ngày và đêm trên trái đất |
46. |
4 |
2+3 |
Trao đổi chất ở người |
47. |
4 |
20 |
Nước có những tính chất gì? |
48. |
4 |
21 |
Ba thể của nước |
49. |
4 |
22 |
Mây được hình thành như thế nào? Mưa từ đâu ra? |
50. |
4 |
23 |
Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên |
51. |
4 |
27 |
Một số cách làm sạch nước |
52. |
4 |
30 |
Làm thế nào để biết có không khí? |
53. |
4 |
31 |
Không khí có những tính chất gì? |
54. |
4 |
32 |
Không khí gồm những thành phần nào? |
55. |
4 |
35 |
Không khí cần cho sự cháy |
56. |
4 |
36 |
Không khí cần cho sự sống |
57. |
4 |
37 |
Tại sao có gió? |
58. |
4 |
41 |
Âm thanh |
59. |
4 |
42 |
Sự lan truyền âm thanh |
60. |
4 |
45 |
Ánh sáng |
61. |
4 |
46 |
Bóng
tối |
62. |
4 |
47 |
Ánh
sáng cần cho sự sống |
63. |
4 |
50+51 |
Nóng
lạnh và nhiệt độ |
64. |
4 |
52 |
Vật
dẫn nhiệt và vật cách nhiệt |
65. |
4 |
55+56 |
Ôn
tập: Vật chất và năng lượng |
66. |
4 |
57 |
Thực
vật cần gì để sống? |
67. |
4 |
60 |
Nhu
cầu không khí của thực vật |
68. |
4 |
61 |
Trao
đổi chất ở thực vật |
69. |
4 |
62 |
Động
vật cần gì để sống |
70. |
4 |
64 |
Trao
đổi chất ở động vật |
71. |
5 |
29 |
Thuỷ
tinh |
72. |
5 |
30 |
Cao
su |
73. |
5 |
31 |
Chất
dẻo |
74. |
5 |
35 |
Sự
chuyển thể của chất |
75. |
5 |
36 |
Hỗn
hợp |
76. |
5 |
37 |
Dung
dịch |
77. |
5 |
38+39 |
Sự
biến đổi hoá học |
78. |
5 |
46+47 |
Lắp
mạch điện đơn giản |
79. |
5 |
51 |
Cơ
quan sinh sản của thực vật có hoa |
80. |
5 |
53 |
Cây
con mọc lên từ hạt |
81. |
5 |
54 |
Cây
con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ |
2. Ví dụ minh họa về tiến trình dạy học theo
phương pháp “Bàn tay nặn bột”
DUNG DỊCH
(KHOA HỌC LỚP 5 – BÀI 37)
(Bài này áp dụng PP BTNB vào tất cả các hoạt động của bài)
I. Mục đích yêu cầu:
Sau bài học HS biết cách tạo ra một dung dịch, kể tên một số dung dịch, nêu một số cách tách các chất trong dung dịch.
II. Tiến trình dạy học đề xuất:
Bước 1: Giáo viên nêu tình huống xuất phát và đặt câu hỏi nêu vấn đề của toàn bài học:
- Giáo viên cho HS quan sát 3 li nước: 1 li đựng nước, 1 li bỏ đường vào và 1 li khuấy nước và đường.
- GV hỏi: Theo em, trong 3 li nước trên, li nào được gọi là dung dịch? (HS trả lời)
Bước 2: Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết ban đầu của mình vào vở thí nghiệm về dung dịch thông qua quan sát các li nước và qua vốn sống thực tế của các em.
Bước 3: Đề xuất các câu hỏi:
- Giáo viên định hướng cho học sinh nêu thắc mắc, đặt câu hỏi.
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm.
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học), ví dụ:
- Cho đường vào nước rồi khuấy đều có tạo thành dung dịch không?
- Cho đường vào nước nhưng không khuấy đều có tạo thành dung dịch không?
- Cho cát vào nước rồi khuấy đều có tạo thành dung dịch không?
- Cho nước siro vào nước lọc có tạo thành dung dịch không? ..........
Bước 4: Đề xuất các thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, đề xuất và tiến hành thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm 4 hoặc nhóm 6 để tìm câu trả lời cho các câu hỏi ở bước 3 và ghi vào phiếu:
Tên và đặc điểm của từng chất tạo ra dung dịch |
Tên thí nghiệm |
Tên dung dịch và đặc điểm của dung dịch |
Câu hỏi |
Dự đoán |
Kết luận |
-Đường: chất rắn, vị ngọt... -Nước: chất lỏng, không có vị..... |
Tạo dung dịch từ các chất đường và nước |
-Nước đường - Vị ngọt |
Có phải dung dịch không? |
Hòa tan |
Là dung dịch |
-Cát: chất rắn -Nước: chất lỏng, không có vị..... |
Tạo dung dịch từ cát và nước |
................ |
................. |
...... |
....... |
........... |
......... |
.......... |
......... |
........ |
........ |
Bước 5: Kết luận, kiến thức mới:
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2 để khắc sâu kiến thức.
- HS rút ra kết luận:
+ Hỗn hợp chất lỏng với chất rắn bị hòa tan và phân bố đều hoặc hỗn hợp chất lỏng với chất lỏng hòa tan vào nhau gọi là dung dịch.
+ Cách tạo ra dung dịch.
Liên hệ thực tế: Kể tên một số dung dịch mà em biết
Hoạt động 2: Thực hành tách các chất trong dung dịch
(GV có thể sử dụng PP BTNB cho hoạt động 2 theo các bước của PP)
BÀI 20: NƯỚC CÓ NHỮNG TÍNH CHẤT GÌ?
(KHOA HỌC LỚP 4 - BÀI 20)
(Có thể sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong toàn bộ bài học)
I. Mục đích yêu cầu: Sau bài học, học sinh:
- Nêu được 1 số tính chất của nước: Nước là chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi, không vị, không có hình dạng nhất định. Nước chảy từ trên cao xuống thấp, lan ra khắp mọi nơi, thấm qua một số vật và hòa tan được 1 số chất.
- Quan sát và làm được 1 số thí nghiệm để phát hiện ra một số tính chất của nước.
- Nêu được 1 số ví dụ về ứng dụng một số tính chất của nước trong đời sống.
II. Hoạt động dạy học dự kiến của giáo viên:
Bước 1: Giáo viên nêu ra tình huống có vấn đề và đặt câu hỏi nêu vấn đề của toàn bài học: (2 phút)
- Giáo viên cho học sinh xem 1 đoạn phim
Hỏi : Em có suy nghĩ gì về nước ?
Bước 2 : Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết của mình về nước vào vở thí nghiệm (2 phút)
Bước 3: Đề xuất các câu hỏi (3 phút)
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học), dự kiến các câu hỏi có thể nhóm được như sau:
1. Nước có màu, có mùi, có vị không?
2. Nước có hình dạng nhất định không và nước chảy như thế nào?
3. Nước có thể hòa tan hoặc không hòa tan một số chất nào ?
4. Nước có thể thấm hoặc không thấm qua một số chất nào ?
Bước 4: Đề xuất các phương án thí nghiệm nghiên cứu
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm, nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi ở bước 3 :
1. Nước có màu, có mùi, có vị không?
2. Nước có hình dạng nhất định không và nước chảy như thế nào?
3. Nước có thể hòa tan hoặc không hòa tan một số chất nào ?
4. Nước có thể thấm hoặc không thấm qua một số chất nào ?
- Các nhóm lần lượt làm các thí nghiệm để trả lời các câu hỏi trên.
Bước 5: Rút ra kiến thức:
- Học sinh kết luận các tính chất của nước
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2 để khắc sâu kiến thức.
- Giáo viên chốt
* Liên hệ thực tế:
- Người ta đã ứng dụng tính chất nước chảy từ trên cao xuống thấp, lan ra khắp mọi phía để làm gì?
- Người ta đã ứng dụng tính chất nước không thấm qua một số vật để làm gì?
BÀI 30: LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT CÓ KHÔNG KHÍ?
(KHOA HỌC LỚP 4 – BÀI 30)
(Có thể sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong hoạt động 1 và 2 của bài học)
I. Mục đích yêu cầu:
HS biết:
- Làm thí nghiệm để phát hiện không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng có trong các vật.
- Phát biểu định nghĩa về khí quyển.
II. Đồ dùng dạy học:
- HS: Chuẩn bị các đồ dùng thí nghiệm theo nhóm: Các túi ni-lông, dây chun, kim khâu, chậu hoặc bình thủy tinh, chai không, một miếng bọt biển, một viên gạch hay cục đất khô.
III. Hoạt động dạy học dự kiến:
1. Hoạt động 1: Thí nghiệm chứng minh không khí có ở quanh mọi vật
1.1. Giáo viên nêu tình huống xuất phát và đặt câu hỏi nêu vấn đề của toàn bài học:
Không khí rất cần cho sự sống. Vậy không khí có ở đâu? Làm thế nào để biết có không khí?
1.2. Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết ban đầu của mình vào vở thí nghiệm về không khí (2 phút)
1.3. Đề xuất các câu hỏi:
- Giáo viên cho học sinh quan sát bao ni lông căng phồng và định hướng cho học sinh nêu thắc mắc, đặt câu hỏi.
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học):
Câu hỏi: Trong bao ni lông căng phồng có gì?
1.4. Đề xuất các thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, đề xuất và tiến hành thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm 4 để tìm câu trả lời cho câu hỏi ở bước 3.
1.5. Kết luận, kiến thức mới:
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2 để khắc sâu kiến thức.
- Giáo viên tổng kết và ghi bảng: Xung quanh mọi vật đều có không khí.
2. Hoạt động 2: Thí nghiệm chứng minh không khí có trong những chỗ rỗng của mọi vật
2.1. Giáo viên nêu tình huống xuất phát và đặt câu hỏi nêu vấn đề cho toàn bài học:
Xung quanh mọi vật đều có không khí. Vậy quan sát cái chai, miếng bọt biển (hay hòn gạch) xem có gì?
2.2. Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết ban đầu của mình vào vở thí nghiệm về vấn đề có cái gì trong cái chai, miếng bọt biển … (2 phút)
2.3. Đề xuất các câu hỏi:
- Giáo viên cho học sinh quan sát cái chai, miếng bọt biển (hay hòn gạch) và định hướng cho học sinh nêu thắc mắc, đặt câu hỏi.
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học) :
Câu 1: Trong chai rỗng có gì?
Câu 2: Những chỗ rỗng bên trong miếng bọt biển có gì?
Câu 3: Những chỗ rỗng bên trong hòn gạch có gì?
2.4. Đề xuất các thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, đề xuất và tiến hành thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm 4 để tìm câu trả lời cho câu hỏi ở bước 3 (3 thí nghiệm)
2.5. Kết luận, kiến thức mới:
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2 để khắc sâu kiến thức.
- Giáo viên tổng kết và ghi bảng:
Những chỗ rỗng bên trong vật đều có không khí.
3. Hoạt động 3: Hệ thống hóa kiến thức về sự tồn tại của không khí
Lớp không khí bao quanh trái đất gọi là gì?
- Học sinh trả lời
- Giáo viên ghi bảng: Lớp không khí bao quanh trái đất gọi là khí quyển
- GV yêu cầu HS tìm những ví dụ chứng tỏ không khí có ở xung quanh ta và không khí có trong chỗ rỗng của mọi vật.
Liên hệ thực tế: Giáo viên cho học sinh quan sát:
- Các quả bong bóng, cái bơm tiêm, cái bơm xe đạp và cho các em trả lời các câu hỏi:
Trong các quả bong bóng có gì?
Trong cái bơm tiêm có gì? Điều đó chứng tỏ không khí có ở đâu?
Khi bơm mực em thấy có hiện tượng gì xảy ra? Điều đó chứng tỏ điều gì?
Kết thúc tiết học
BÀI 53: CÂY CON MỌC LÊN TỪ HẠT
(KHOA HỌC LỚP 5 – BÀI 53)
I. Mục đích yêu cầu: Sau bài học HS biết:
- Quan sát, mô tả cấu tạo của hạt.
- Nêu được quá trình hạt mọc thành cây
- Giới thiệu kết quả thực hành gieo hạt ở nhà và nêu được điều kiện nảy mầm của hạt.
- Nêu được quá trình phát triển thành cây của hạt.
II. Đồ dùng dạy học:
- HS: Bảng con, bút dạ. Ươm 1 số hạt lạc, đậu vào bông ẩm (đất ẩm) khoảng 4 -5 ngày trước khi học đem đến lớp.
III. Hoạt động dạy học dự kiến:
Hoạt động 1: Tìm hiểu cấu tạo của hạt
Bước 1: Tình huống xuất phát và đặt câu hỏi nêu vấn đề của toàn bài học:
- Giáo viên cho học sinh xem ảnh về một loài cây. Hỏi: Cây này là cây gì? (Cây đậu)
- Cây đậu mọc lên từ đâu? (Hạt)
- Trong hạt đậu có gì?
Bước 2 : Trình bày ý kiến ban đầu của học sinh
- Học sinh làm việc cá nhân: ghi lại những hiểu biết của mình về cấu tạo của hạt vào vở thí nghiệm bằng cách viết hoặc vẽ ….
Bước 3: Đề xuất các câu hỏi
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm về cấu tạo của hạt đậu.
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học) :
1. Trong hạt có nước hay không?
2. Trong hạt có nhiều rễ không?
3. Có phải trong hạt có nhiều lá không?
4. Có phải trong hạt có cây con không?
…….
Bước 4: Đề xuất các phương án thí nghiệm nghiên cứu
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm, nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi ở bước 3 :
1. Trong hạt có nước hay không?
2. Trong hạt có nhiều rễ không?
3. Có phải trong hạt có nhiều lá không?
4. Có phải trong hạt có cây con không?
…….
- Các nhóm lần lượt làm các thí nghiệm tách đôi hạt đậu để trả lời các câu hỏi trên.
Bước 5: Kết luận, rút ra kiến thức:
- Học sinh kết luận về cấu tạo của hạt đậu
- Học sinh vẽ và mô tả lại cấu tạo của hạt sau khi tách vào vở thí nghiệm
- Học sinh so sánh lại với hình tượng ban đầu xem thử suy nghĩ của mình có đúng không.
- Học sinh nhắc lại cấu tạo của hạt.
Hoạt động 2:
Hoạt động 3:
Hoạt động 4:
(Vì hoạt động 2, 3 và 4 không
áp dụng được PP BTNB nên chúng tôi không đưa vào đây)
CẤU TẠO BÊN TRONG
CỦA HẠT ĐẬU
1. Mục tiêu bài học
Sau
bài học, học sinh hiểu và mô tả được cấu tạo bên trong của hạt đậu
2. Thiết bị dạy học
- Một số hạt đậu ngự đã được ngâm nước;
- Dao nhỏ dùng để tách hạt đậu.
3. Tiến trình dạy học cụ thể
Hoạt động của giáo viên |
Hoạt động của học sinh |
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
|
Giáo viên đưa ra một vài hạt đậu ngự (Loại đậu hạt lớn
nhằm mục đích cho học sinh dễ quan sát). Đồng thời giáo viên đặt câu hỏi: "Theo
các em trong hạt đậu có gì?". |
Học sinh quan sát các hoạt đậu ngự và ý thức được nhiệm
vụ cần làm. |
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu |
|
Trong thời gian học sinh vẽ các ý kiến của mình vào vở
thí nghiệm, giáo viên tranh thủ quan sát nhanh để tìm các hình vẽ đúng và cần
phải chú trọng đến các hình vẽ sai (biểu tượng ban đầu "ngây thơ"). |
Học sinh vẽ theo suy nghĩ cá nhân ban đầu về những gì có
bên trong hạt đậu. Thời gian cho hoạt động này khoảng 2-3 phút. |
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án thí nghiệm |
|
Giả sử sau khi quan sát nhanh hoạt động cá nhân của các
học sinh trong lớp về hình vẽ biểu tượng ban đầu "Có gì bên trong hạt
đậu?" Giáo viên chọn được 9 hình vẽ khác nhau như hình vẽ nêu ở bước 2.
Mặc dù các hình vẽ khác nhau nhưng tựu chung lại giáo viên có thể gợi ý để
học sinh thấy có những điểm chung trong quan niệm ban đầu của các em. Cụ thể
là: |
Sau khi giúp học sinh so sánh và gợi ý để học sinh phân
nhóm các ý kiến ban đầu, giáo viên hướng dẫn các học sinh đặt các câu hỏi
nghi vấn. Cụ thể trong trường hợp đang xét, học sinh có thể đưa ra các câu
hỏi: |
Giáo viên yêu cầu học sinh đề xuất thí nghiệm tìm tòi -
nghiên cứu cho các câu hỏi xuất phát từ sự khác nhau của các biểu tượng ban
đầu về cấu tạo bên trong của hạt đậu. |
Học sinh có thể đề xuất nhiều phương án như: |
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
|
Giáo viên khéo léo nhận xét các ý kiến trên đều có lý
nhưng cả lớp sẽ thực hiện phương án tách hạt đậu ra để quan sát, tìm hiểu cấu
tạo bên trong của hạt đậu. Lúc này giáo viên mới phát cho mỗi học sinh một
hạt đậu (tương ứng với số lượng học sinh trong mỗi nhóm, có thể tăng 2, 3 hạt
dự phòng trong trường hợp học sinh tách hạt đậu không thành công); đồng thời
hướng dẫn học sinh tách hạt đậu ở phía lưng hạt (để tránh gẫy lá mầm ở phía
bụng hạt đậu). Để học sinh tách hạt đậu dễ dàng, giáo viên phải ngâm hạt đậu
vào trong nước ấm (theo 2 sôi/3 lạnh) một đêm trước khi làm thí nghiệm (nhằm
làm hạt đậu phình to, dễ bóc). |
Học sinh tiến hành thí nghiệm tách hạt đậu để quan sát và
ghi chép vào vở thí nghiệm. |
Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức |
|
Sau khi cả lớp thực hiện quan sát, vẽ hình, chú thích
xong thì giáo viên cho học sinh quan sát thêm một tranh vẽ phóng to cấu tạo
bên trong hạt đậu có chú thích (phóng lên màn hình bằng máy chiếu hoặc treo
tranh) hoặc cho học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa nếu có (phương
pháp nghiên cứu tài liệu). |
Học sinh quan sát tranh vẽ về cấu tạo bên trong của hạt
đậu, vẽ lại hình và ghi chú vào vở thí nghiệm. Lúc này học sinh sẽ tự điều
chỉnh các thuật ngữ khoa học cần chú thích trong hình vẽ mà các em làm chưa
đúng. |
Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong của hạt đậu với
hình vẽ khoa học có sẵn hoặc hình tự vẽ (nếu trường hợp không có tranh vẽ in
sẵn). Giáo viên lưu ý học sinh một số chú thích về thuật ngữ khoa học trong
quá trình quan sát, vẽ tranh. Để khắc sâu kiến thức cho học sinh, giáo viên quay
lại các biểu tượng ban đầu trước khi học kiến thức của học sinh còn lưu trên
bảng cùng với các câu hỏi nghi vấn ở bước 3 đã đề xuất. Thông qua đó giáo
viên khéo léo nhấn mạnh cho học sinh với hoạt động thí nghiệm mà học sinh đề
xuất (tách hạt đậu ra để quan sát) chính học sinh có thể tìm ra câu trả lời
cho các câu hỏi nghi vấn đồng thời chỉ cho các em thấy sau quá trình học về
cấu tạo bên trong của hạt đậu các em đã có hình vẽ chính xác hơn về cấu tạo
bên trong của hạt đậu so với các hình vẽ biểu tượng ban đầu. |
Học sinh đối chiếu lại với các biểu tượng ban đầu về cấu
tạo bên trong của hạt đậu để khắc sâu thêm kiến thức. |
TIẾN TRÌNH ĐỀ XUẤT DẠY BÀI ÁNH SÁNG - KHOA HỌC LỚP 4
I. Mục đích yêu cầu: Sau bài học, học sinh biết:
- Phân biệt được vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng. Biết được ánh sáng truyền qua được một số vật và không truyền qua được một số vật, ánh sáng truyền theo đường thẳng, ta chỉ nhìn thấy vật khi có ánh sáng từ vật đó truyền vào mắt.
- Đưa ra phương án và tiến hành thí nghiệm để tìm hiểu các nội dung về ánh sáng
- Có ý thức chọn nơi có đủ ánh sáng để học, đọc sách…
II. Đồ dùng dạy học:
- Tranh 1,2 SGK phóng to
- 4 tấm bìa gương, 4 tấm bìa giấy, 4 chậu nước
- 4 hộp đen, 4 thẻ số, 4 miếng bìa nhỏ.
- 4 đèn pin, 4 thùng caton
III. Tiến trình dạy học đề xuất:
(Tiến trình này đề xuất cho các hoạt động tìm hiểu về đường truyền ánh sáng, về sự truyền ánh sáng qua các vật, tìm hiểu về vấn đề mắt nhìn thấy vật khi nào.)
Khởi động
1. Tình huống xuất phát:
- GV tắt hết đèn trong lớp học, đóng kín các cánh cửa và hỏi HS có thấy được các dòng chữ ghi trên bảng không?
- Sau đó, GV mở các cánh cửa ra, bật hết các bóng đèn, hỏi HS có thấy các dòng chữ trên bảng không? Vì sao?
2. Nêu ý kiến ban đầu của HS:
- GV yêu cầu HS nêu những hiểu biết ban đầu của mình về ánh sáng.
- Cho HS ghi vào vở thí nghiệm, thảo luận nhóm và ghi vào bảng nhóm.
3. Đề xuất các câu hỏi:
- Giáo viên định hướng cho học sinh nêu thắc mắc, đặt câu hỏi xoay quanh nội dung về ánh sáng.
- Tổng hợp các ý kiến cá nhân để đặt câu hỏi theo nhóm.
- Giáo viên chốt các câu hỏi của các nhóm (nhóm các câu hỏi phù hợp với nội dung bài học), ví dụ:
+ Ánh sáng có thể truyền qua những vật nào và không truyền qua những vật nào?
+ Ánh sáng đi như thế nào?
+ Những vật như li, chén, xô, áo, quần ... có tự phát sáng được không?..........
4. Đề xuất các thí nghiệm nghiên cứu:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, đề xuất, dự đoán kết quả và tiến hành thí nghiệm nghiên cứu theo nhóm 4 hoặc nhóm 6 để tìm câu trả lời cho câu hỏi ở bước 3 liên quan đến các nội dung:
+ Tìm hiểu về đường truyền của ánh sáng;
+ Tìm hiểu về sự truyền ánh sáng qua các vật;
+ Tìm hiểu vấn đề khi nào mắt nhìn thấy được vật.
5. Kết luận, kiến thức mới:
- Giáo viên tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả
- Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh lại với các ý kiến ban đầu của học sinh ở bước 2 để khắc sâu kiến thức.
(Hoạt động Tìm hiểu vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng ở bài học này có thể giảng dạy theo các phương pháp thông thường sử dụng các tranh ảnh trong SGK)
- Liên hệ giáo dục:
- Dặn dò: Yêu cầu HS ghi lại những điều em biết được về ánh sáng sau bài học vào vở thí nghiệm.
GIÁO ÁN TNXH LỚP 3
Bài 47: Hoa
I. Mục tiêu
Kiến thức
Sau
bài học, HS:
- Thấy được sự khác nhau về
hình dạng, kích thước, màu sắc, mùi hương của một số loài hoa.
- Kể được tên một số bộ phận
thường có của một bông hoa.
-
Nêu được chức năng và lợi ích của hoa.
Kĩ năng
Rèn cho HS các kĩ năng:
- Kĩ năng quan sát, so sánh để tìm ra sự khác nhau về đặc điểm bên ngoài của một số loài hoa.
- Tổng hợp, phân tích thông tin để biết vai trò, ích lợi của một số loài hoa đối với đời sống con người.
- GD kĩ năng sống: HS biết được những việc nên làm và không nên
làm đối với một số loài hoa.
Thái độ
Giáo dục ý thức yêu
thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
II. Chuẩn bị
- HS chuẩn bị nội dung bài học.
- GV chuẩn bị các phương tiện có liên quan đến
bài dạy.
III. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định
...
2. Kiểm tra bài cũ ...
3. Bài mới→Liên hệ thực tế cho HS
kể về các loài hoa mà các em biết.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN |
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hoạt
động 1: Tìm hiểu sự khác nhau của một số loài hoa *
Mục tiêu: HS tìm ra sự khác nhau
về hình dạng, kích thước, màu sắc, mùi hương của một số loài hoa. -
Giáo viên cho HS làm việc cá nhân và nhóm: + Cá nhân quan sát các hình trang 90 trong SGK và trả lời
câu hỏi: Nói tên những bông hoa mà bạn biết. + Nhóm: Nhận xét về màu sắc và hương thơm của các bông
hoa do GV phát cho. Ghi nhận xét vào phiếu học tập.
+ Cá
nhân quan sát các hình và trả lời câu hỏi: Hình dạng, kích thước của các loài
hoa như thế nào? -
Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận. Hoạt động 2: Tìm hiểu thành phần cấu tạo của hoa *
Mục tiêu: HS kể được tên một số
bộ phận thường có của một bông hoa. (tiến hành theo phương pháp
bàn tay nặn bột) Các bước tiến hành theo phương pháp bàn tay nặn bột: + Bước 1: Đưa tình
huống xuất phát Cấu tạo của hoa như thế
nào? Chúng gồm những thành phần gì? + Bước 2: Làm bộc lộ những
hiểu biết ban đầu của HS
qua
hoa thật. ▪ Quan sát hoa hồng và hoa dâm bụt. ▪ Thảo luận trong nhóm, ghi lại trên giấy
các thành phần của hoa mà bạn biết. ▪ Hãy chỉ và nói tên các thành phần của một
bông hoa mà bạn biết? GV lưu ý những điểm sai của HS, chưa đưa ra đáp án đúng. + Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi Phân tích điểm giống và khác nhau
giữa các bông hoaà đề xuất câu hỏi
và phương án tìm tòià Phân tích hoa + Bước 4: Thực hiện phương
án tìm tòi khám phá GV yêu cầu HS thực hiện qua
các bước: (HS xem đoạn phim về phân
tích hoa) ▪ Tách hoa ra ▪ Phân loại các thành phần của hoa ▪ Nhận biết đặc điểm và gọi tên các thành phần của bông hoa ▪ Vẽ sơ đồ các thành phần của hoa. + Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức Hoạt
động 3: Tìm hiểu về lợi ích và chức năng của hoa *
Mục tiêu: HS nêu được lợi ích và
chức năng của hoa. - GV
cho HS đọc thầm phần thông tin ở cuối trang 91 và trả lời các câu hỏi: + Hoa
là cơ quan gì của cây? + Hoa
được dùng để làm gì? + Kể
tên một số loài hoa hoa được dùng để trang trí, làm nước hoa, ướp chè hoặc để
ăn? * Giáo dục: + Hoa có hương thơm,
… không nên đưa lên mũi ngửi trực tiếp… không tốt cho sức khoẻ. + Một số hoa có thể có độc, gây ngứa, ..không nên tiếp
xúc với các loại hoa đó. + Không nên để nhiều hoa trong phòng ngủ... + Nên có ý thức bảo vệ cây hoa, không nên hái hoa nơi
công cộng… |
- HS quan sát hình 1-4 trong SGK, nói tên các bông hoa … - HS
quan sát mẫu vật thật, thảo luận nhóm và ghi kết quả vào phiếu học tập. + Đại
diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận.
à Hoa có nhiều màu sắc khác nhau: trắng, đỏ, hồng,… Mùi hương của hoa khác nhau. à Hoa có hình dạng, kích thước rất khác nhau: có hoa to,
tròn; có nhỏ, dài … *
HS rút ra kết luận: Các loài hoa
thường khác nhau về hình dạng, kích thước, màu sắc và mùi hương… * HS làm việc theo nhóm
- HS chỉ và nói tên các bộ phận của một hoa hồng và hoa dâm bụt
theo hiểu biết của mình. - HS đề xuất câu hỏi và
phương án tìm tòi + Làm thế nào để biết bên trong hoa có bộ phận gì? + Phương án tìm tòi à
Tách hoa ra - HS thực hiện phương án tìm tòi + Các nhóm cùng phân tích hoa dâm bụt (bông bụp) à Các nhóm so sánh kết quả phân loại. à So sánh kết quả
phân tích với các dự đoán ban đầu của các nhóm? à HS tự điều chỉnh lại kiến thức sai àVẽ sơ đồ các thành phần của một bông hoa…
* HS rút ra kết luận: Mỗi bông hoa thường có cuống, đài, cánh,
nhị, nhụy. - HS tìm hiểu phần thông tin trong SGK và trả
lời các câu hỏi + Hoa là cơ quan sinh sản của cây. + Hoa thường được dùng để trang trí, làm nước hoa, ướp chè, để ăn, để làm thuốc… + Kể tên những hoa thường được dùng để trang trí, làm nước hoa, ướp chè, để ăn, để làm thuốc… - Đại diện HS trình bày à HS khác
nhận xét và bổ sung. * HS rút ra kết luận: Hoa là cơ quan sinh sản của cây. Hoa
thường dùng để trang trí, làm nước hoa và nhiều việc khác… |
4. Nhận xét
GV nhận xét tiết học.
Tóm lại qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học các môn TN&XH và Khoa học, chúng tôi nhận thấy đây là một phương pháp có thể phát huy tối đa khả năng tự học và sáng tạo của học sinh, giúp các em tự phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra. Nhờ đó học sinh hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ, góp phần hình thành tác phong và phương pháp làm việc của một nhà khoa học khi các em trưởng thành.
SƯU TẦM
Các tin khác
- Những điều giáo viên không nói trong buổi họp phụ huynh (09/09/2017)
- THỂ LỆ CUỘC THI CHINH PHỤC VŨ MÔN LẦN THỨ III (08/10/2016)
- KẾ HOẠCH CUỘC THI CHINH PHỤC VŨ MÔN (08/10/2016)
- Cách trang trí lớp học thân thiện cực đáng yêu tạo hứng khới học tập. (08/10/2016)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOIN(TIẾP) (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOINT (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO KHỐI 2 (TIẾP) (20/12/2015)
- KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO (20/12/2015)
- THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRÊN POWERPOIN (TIẾP) (20/12/2015)
- Một vài kinh nghiệm đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 30 (10/10/2015)
- TỔ CHỨC CHO HỌC SINH HỌC TẬP THEO NHÓM CỘNG TÁC NHƯ THẾ NÀO ? (21/01/2015)
- “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”. (21/01/2015)