Ngày: 25/02/2015
TẬP HUẤN CHO SINH VIÊN NGÀNH GDTH
VỀ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN
Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm
say mê khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi
mà nền kinh tế tri thức đang dần dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên thế
giới.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy
học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, đặc
biệt là đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, khi học sinh đang ở giai đoạn
bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học, hình thành các khái niệm cơ
bản về khoa học. Tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các
em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào
tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề.
Chương
trình “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học,
dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học
sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình
tiến hành quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ
lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình thành
khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong,
phương pháp làm việc khi trưởng thành.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển nhận định,
phương pháp này giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa
học và niềm say mê sáng tạo, phát hiện, giải quyết vấn đề. Vậyphương pháp dạy học "Bàn tay nặn
bột” là gì?
I. Khái quát về Phương pháp dạy học
"Bàn tay nặn bột”
1. Phương pháp dạy
học "Bàn tay nặn bột” là gì?
- Phương pháp
dạy học "Bàn tay nặn bột” (BTNB), tiếng Pháp là La main à la pâte - viết tắt
là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học dựa trên cơ sở
của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học tự
nhiên.
- Phương pháp
này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải Nobel Vật lý năm 1992).
- Theo phương
pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính học sinh tìm ra câu trả lời cho
các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra
để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
BTNB
chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay
điều tra...
Với
một vấn đề khoa học đặt ra, HS có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ
những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và
đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp
kiến thức.
Cũng
như các phương pháp dạy học tích cực khác BTNB luôn coi HS là trung tâm của quá
trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức
dưới sự giúp đỡ của GV.
Mục
tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học
của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến
việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho HS.
2. Lịch sử của phương
pháp “Bàn tay nặn bột”
2.1. Sự ra đời và phát triển của phương pháp
“Bàn tay nặn bột” ở Pháp
Năm 1995, giáo sư Georges Charpak dẫn một đoàn gồm các nhà khoa
học và các đại diện của Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đến một khu phố nghèo ở
Chicago, Mỹ nơi có một phương pháp dạy học khoa học dựa trên việc thực hành,
thí nghiệm đang được thử nghiệm.
Sau đó một nhóm nghiên cứu thuộc Ban trường học - Bộ Giáo dục
quốc gia Pháp được thành lập. Viện nghiên cứu sư phạm quốc gia Pháp được đề nghị
làm báo cáo về các hoạt động khoa học vùng Bắc Mỹ và sự tương thích của các
hoạt động này với điều kiện ở Pháp (Báo cáo thực hiện vào tháng 12 năm
1995).
Trong năm học 1995-1996, Ban Trường học đã vận động khoảng 30
trường thuộc 3 tỉnh tình nguyện thực hiện.
Tháng 4/1996: Một hội thảo nghiên cứu được tổ chức tại
Ngày 09/7/1996: Viện Hàn lâm khoa học đã thông qua quyết định
thực hiện chương trình.
Tháng 9/1996: Cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành bởi Bộ
Giáo dục quốc gia Pháp với cuộc thi giữa 5 tỉnh. Cuộc thi này thu hút 350 lớp.
Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu tham gia giúp đỡ các giáo viên thực hiện
các tiết dạy.
Tính từ đây, phương pháp BTNB được ra đời nhưng đó là một sự kế
thừa của các thử nghiệm trước đó. Lịch sử ra đời của nó là cả một quá trình lâu
dài.
Tóm lại: BTNB được sự hỗ trợ của Viện hàn lâm khoa học Pháp với
một nhóm chuyên nghiên cứu về phương pháp này, các trung tâm vệ tinh được thành
lập, trang web, kinh nghiệm thực tế của các giáo viên, giảng viên. Chương trình
này được thực hiện đồng thời với nhiều hoạt động.
Thành lập một website với hàng nghìn trang
tài liệu
Thành lập một mạng lưới các trung tâm vệ
tinh hỗ trợ giáo viên và các trang web tại các địa phương.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho các nhà
khoa học và các chuyên gia về BTNB trên trang web về những vấn đề liên quan.
Thành lập một mạng lưới quốc tế nghiên cứu
về phương pháp.
Hình thành các giải thưởng dành cho các
trường thực hiện BTNB.
Hình thành trường mùa đông « Hạt giống
khoa học» dành cho GV, chuyên gia làm việc chung với nhau trên một chủ đề khoa
học.
Tất cả các chương trình hành động trên đều nhằm mục đích hỗ trợ,
giúp đỡ giáo viên để có thể thực hiện tốt phương pháp BTNB trong nhà trường.
2.2. Sơ lược tiểu sử của giáo sư G. Charpak - Người khai sinh phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Georges Charpak là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học
Pháp, đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1992. Georges Charpak
sinh ngày 01/08/1924 tại Dabrovica, Phần Lan. Ông học kỹ sư ở trường Mỏ
Paris (1948), đây là một trường danh tiếng và uy tín trong hệ thống trường lớn
“Grandes écoles” của nước Pháp. G. Charpak bảo vệ luận án Tiến sỹ năm 1955, trở
thành nghiên cứu viên của Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS)
tại phòng thí nghiệm Vật lý hạt nhân của Collègue de France (một trường danh
tiếng và uy tín tại Paris). Năm 1959, ông là nghiên cứu viên chính của Trung
tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), sau đó làm việc tại Trung tâm
nghiên cứu hạt nhân Châu Âu từ 1963 đến 1989. Năm 1984, ông làm việc tại
phòng thí nghiệm Chaire Joliot-Curie của Trường cấp cao Vật lý và Hóa học
công nghiệp Paris
(ESPCI).
Các
công trình của Georges Charpak tập trung chủ yếu về Vật lý hạt nhân, Vật lý hạt
năng lượng cao.
Năm 1995, Georges Charpak kết hợp với Pierre Léna và Yves Quéré đưa ra chương trình BTNB nhằm đổi mới việc giảng dạy khoa học ở trường Tiểu học tại Pháp và các nước Châu Âu. Nhiều hợp tác quốc tế đã được ký kết nhằm mở rộng chương trình này ra nhiều quốc gia trên thế giới.
3. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” tại Việt
Phương pháp dạy học BTNB được đưa vào Việt
Phương pháp BTNB được giới thiệu tại
Việt
Các đợt tập huấn phối hợp tổ chức bởi Hội Gặp gỡ Việt
Năm |
Địa điểm |
Số người tham gia |
2002 |
ĐH Sư phạm Hà Nội |
70 |
2004 |
ĐH Sư phạm Hà Nội |
78 |
2005 |
ĐH Sư phạm Hà Nội |
67 |
2006 |
Tỉnh Đồng Nai, ĐH Sư phạm
Hà Nội |
83 |
2007 |
ĐH Sư phạm Hà Nội |
22+92 |
2008 |
Trường Hermann Gmeiner Gò
Vấp-TP HCM, Sở GD-ĐT TP Đà Nẵng |
63 |
2009 |
Trường Hermann Gmeiner Đà
Nẵng, Sở GD-ĐT TP Đà Nẵng |
82 |
2009 |
Đại học Quảng Bình - Đồng
Hới |
30 |
2010 |
Trường Hermann Gmeiner, Vinh, Sở GD-ĐT tỉnh Nghệ An |
8+88 |
2011 |
Trường THCS Nguyễn Chí
Diểu-Huế; Sở GD-ĐT tỉnh Thừa Thiên Huế |
75 |
2011 |
Trường THCS Lê Hồng Phong,
Quy Nhơn Sở GD-ĐT tỉnh Bình Định |
60 |
2012 |
Cần Thơ |
90 |
3-4 /08/ 2010 |
Trường Hermann Gmeiner Đà
Nẵng, Sở GD-ĐT TP Đà Nẵng |
72 |
1/08/ 2011 |
Huế |
158 |
4. Các nguyên tắc của“Bàn tay nặn bột”
Có 10 nguyên tắc
1. Học sinh quan sát một sự vật
hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và
các em sẽ thực hành trên những cái đó.
2.Trong quá trình tìm hiểu, học
sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và
những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà chỉ những hoạt động, thao
tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
3. Những hoạt động do giáo viên đề
xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ
học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên
và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
4. Cần một lượng tối thiểu là 2
giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và
những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
5. Học sinh bắt buộc có mỗi em một
quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của
chính các em.
6. Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh
dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm
theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói.
Những đối tượng tham gia.
7. Các gia đình và/hoặc khu phố
được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
8. Ở địa phương, các cơ sở khoa
học (trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,..) giúp các hoạt động của lớp
theo khả năng của mình.
9. Ở địa phương, các Viện Đào tạo
giáo viên (Trường cao đẳng sư phạm, đại học sư phạm) giúp các giáo viên về kinh
nghiệm và phương pháp giảng dạy.
10. Giáo viên có thể tìm thấy trên
Internet các website có nội dung về những môđun (bài học) đã được thực hiện,
những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc. Họ cũng có thể tham
gia những hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư
phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và
đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
5. Tiến trình dạy học
theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
“Bàn tay nặn bột” đề xuất một tiến trình ưu tiên xây dựng tri
thức bằng khai thác, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự thực hành khoa học bằng
hành động, hỏi đáp, tìm tòi, thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ không phải bằng
phát biểu lại các kiến thức có sẵn xuất phát từ sự ghi nhớ thuần tuý.
Các bước |
Nhiệm vụ của HS |
Nhiệm vụ của GV |
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề |
-
Quan sát, suy nghĩ. |
- GV chủ động đưa ra một tình huống mở có liên quan
đến vấn đề khoa học đặt ra. - Câu hỏi nêu vấn đề đảm bảo ngắn gọn, gần gũi, dễ
hiểu, phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò,
thích tìm tòi, nghiên cứu… |
Bước 2: Bộc lộ quan niệmban đầu của học sinh |
- Bộc lộ quan niệm ban đầu nêu những suy
nghĩ từ đó hình thành câu hỏi, giả thuyết. …..bằng nhiều cách nói, viết, vẽ.
Đây là bước quan trọng đặc trưng của PP BTNB. |
- GV cần: Khuyến khích HS nêu những suy nghĩ….bằng
nhiều cách nói, viết, vẽ. - GV quan sát nhanh để tìm các hình vẽ khác biệt. - GV không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm
đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai. |
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án
thực nghiệm |
a. Đề xuất câu hỏi - Từ các khác biệt và phong phú về biểu tượng ban
đầu, HS đề xuất câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. |
- GV giúp học sinh đề xuất câu hỏi liên quan đến nội
dung bài học. - Kiểm soát lời nói, cấu trúc câu hỏi, chính xác hoá
từ vựng của học sinh. |
b, Đề xuất phương án thực nghiệm - Bắt đầu từ những vấn đề khoa học được xác định, HS
xây dựng giả thuyết. - HS trình bày các ý tưởng của mình, đối chiếu
nó với những bạn khác. |
- GV đặt câu hỏi đề nghị HS đề xuất thực nghiệm tìm
tòi nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi đó. - GV ghi lại các cách đề xuất của học sinh (không lặp
lại). - GV nhận xét chung và quyết định tiến hành PP thí
nghiệm đã chuẩn bị sẵn. (Nếu HS chưa đề xuất được GV có thể gợi ý hay
đề xuất phương án cụ thể. Chú ý làm rõ và quan tâm đến sự khác biệt giữa các
ý kiến). |
|
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu |
HS
hình dung có thể kiểm chứng các giả thuyết bằng… …thí nghiệm
(Ưu tiên thí nghiệm trực tiếp trên vật thật). …quan sát …điều tra …nghiên cứu tài
liệu. - HS sinh ghi chép lại vật liệu thí nghiệm, cách bố
trí, và thực hiện thí nghiệm (mô tả bằng lời hay hình vẽ). |
- Nêu rõ yêu cầu, mục đích thí nghiệm sau đó mới phát
các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm - GV bao quát và nhắc nhở các nhóm chưa thực hiện,
hoặc thực hiện sai… - GV tổ chức việc đối chiếu các ý kiến sau một thời
gian tạm đủ mà HS có thể suy nghĩ - GV khẳng định lại các ý kiến về phương pháp kiểm chứng
giả thuyết mà HS đề xuất. - GV không chỉnh sửa cho học sinh |
- HS kiểm chứng các giả thuyết của mình bằng một hoặc
các phương pháp đã hình dung ở trên (thí nghiệm, quan sát, điều tra, nghiên
cứu tài liệu). |
- GV tập hợp các điều kiện thí nghiệm nhằm kiểm chứng
các ý tưởng nghiên cứu được đề xuất. |
|
Thu nhận các kết quả và ghi chép lại để trình bày |
- GV giúp HS phương pháp trình bày các kết quả. |
|
Bước 5: Kết luận và hợp thức hoá kiến thức |
HS kiểm tra lại tính hợp lý của các giả thuyết mà
mình đưa ra. *Nếu giả
thuyết sai: thì quay lại bước 3. * Nếu giả thuyết đúng: Thì kết luận và ghi nhận chúng. |
- GV động viên HS và yêu cầu bắt đầu lại tiến trình
nghiên cứu. - GV giúp HS lựa chọn các lý luận và hình thành kết
luận. - Sau khi thực hiện nghiên cứu, các câu hỏi dần dần
được giải quyết, các giả thuyết dần dần được kiểm chứng tuy nhiên vẫn chưa có
hệ thống hoặc chưa chính xác một cách khoa học. - GV có trách nhiệm tóm tắt, kết luận và hệ
thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức bài học. - GV khắc sâu kiến thức bằng cách đối chiếu biểu
tượng ban đầu. |
6. Các kỹ thuật
dạy học và rèn luyện kỹ năng cho học sinh trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”
6.1. Tổ chức lớp học
Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo phương
pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện lợi cho việc
tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo
nhóm cố định. Sau đây là một số gợi ý để giáo viên sắp xếp bàn ghế, vật dụng
trong lớp học phù hợp với hoạt động nhóm:
- Các nhóm bàn ghế cần sắp xếp hài hòa theo số lượng
học sinh trong lớp.
- Cần chú ý đến hướng ngồi của các học sinh sao cho tất cả học sinh đều nhìn
thấy rõ thông tin trên bảng.
- Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật, tạo điều kiện đi lại dễ dàng cho
học sinh khi lên bảng trình bày, di chuyển khi cần thiết.
- Chú ý đảm bảo ánh sáng cho học sinh.
- Đối với những bài học có làm thí nghiệm thì giáo viên cần có chỗ để các vật dụng
dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh - Mỗi lớp học nên có một tủ đựng đồ dùng
dạy học cố định.
Không khí làm việc trong lớp học:
- Giáo viên cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa
các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa
các học sinh trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngợi quá mức một vài học sinh
nào đó hoặc để cho các học sinh khá, giỏi trong lớp luôn làm thay công việc của
cả nhóm, trả lời tất cả các câu hỏi nêu ra mà không tạo cơ hội làm việc cho các
học sinh khác.
- Giáo viên cần tạo được sự thoải mái cho tất cả các học sinh.
6.2. Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu
- Giáo viên cần biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai
của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Biểu tượng ban đầu có thể trình
bày bằng lời nói hay viết, vẽ ra giấy.
- Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân nên giáo viên phải đề
nghị học sinh làm việc cá nhân để trình bày biểu tượng ban đầu.
- Sau khi có các biểu tượng ban đầu khác nhau, phù hợp với ý đồ dạy học, giáo
viên giúp học sinh phân tích những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa các ý
kiến, từ đó hướng dẫn cho học sinh đặt câu hỏi cho những sự khác nhau đó.
6.3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh
Trong quá trình thảo luận, các học sinh được kết nối với nhau
bằng chủ đề thảo luận và trao đổi xoay quanh chủ đề đó. Học sinh cần được
khuyến khích trình bày ý tưởng, ý kiến cá nhân của mình trước các học sinh
khác, từ đó rèn luyện cho học sinh khả năng biểu đạt, đồng thời thông qua đó có
thể giúp các học sinh trong lớp đối chiếu, so sánh với suy nghĩ, ý kiến của
mình. Những ý kiến trái ngược quan điểm luôn là sự kích thích mạnh mẽ cho sự
thảo luận sôi nổi của lớp học.
Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp BTNB:
thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn (toàn bộ lớp
học).
Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận của học sinh trong lớp
học, giáo viên cần chú ý đến một số gợi ý sau để thực hiện điều khiển hoạt động
của lớp học được thành công:
- Thực hiện tốt công tác tổ chức nhóm và thực hiện hoạt
động nhóm cho học sinh.
- Khi thực hiện lệnh thảo luận nhóm, giáo viên cần chỉ rõ nội
dung thảo luận là gì, mục đích của thảo luận. Lệnh yêu cầu của giáo viên càng
rõ ràng và chi tiết thì học sinh càng hiểu rõ và thực hiện đúng yêu cầu.
- Trong một số trường hợp, vấn đề thảo luận được thực hiện với
tốc độ nhanh bởi có nhiều ý kiến của các học sinh khá, giỏi, giáo viên nên làm
chậm tốc độ thảo luận lại để các học sinh có năng lực yếu hơn có thể tham gia.
Tất nhiên việc làm chậm lại tùy thuộc vào thời gian của tiết học.
- Giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của
nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và chọn nhóm có
ý kiến không chính xác nhất cho trình bày trước để gây mâu thuẫn, kích thích
các nhóm khác có ý kiến chính xác hơn phát biểu bổ sung. Ý đồ dạy học theo
phương pháp BTNB sẽ thành công khi có nhiều ý kiến trái ngược, không thống nhất
để từ đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi,
thí nghiệm để kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét
đúng hay sai mà được xuất phát khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu.
- Giáo viên nên để một thời gian ngắn (5-10 phút) cho học sinh
suy nghĩ trước khi trả lời để học sinh có thời gian chuẩn bị tốt các ý tưởng,
lập luận, câu chữ. Khoảng thời gian này có thể giúp học sinh xoáy sâu thêm suy
nghĩ về phần thảo luận hoặc đưa ra các ý tưởng mới.
- Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần
hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học.
6.4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc
hợp tác với nhau giữa các cá nhân. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở
nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp BTNB.
Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động nhóm được chú
trọng nhiều và thông qua đó giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc khoa
học, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh mà chúng ta sẽ phân tích kỹ hơn trong phần
nói và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cho học sinh.
Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng và một thư kí
để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần trình bày ra giấy (viết
lên áp-phích) của nhóm. Nhóm trưởng sẽ là người đại diện cho nhóm trình bày
trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình. Mấu chốt quan trọng nhất là các
học sinh trong nhóm cần làm việc tích cực với nhau, trao đổi, thảo luận sôi
nổi, các học sinh tôn trọng ý kiến của nhau, các cá nhân biết lắng nghe, tạo cơ
hội cho tất cả mọi người trong nhóm trình bày ý kiến của mình, biết chia sẻ đồ
dùng thí nghiệm, biết tóm tắt các ý kiến thống nhất của nhóm, các ý kiến chưa
thống nhất, có đại diện trình bày ý kiến chung của nhóm sau thảo luận trước tập
thể lớp là một nhóm hoạt động đúng yêu cầu.
Trong quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên nên di
chuyển đến các nhóm, tranh thủ quan sát hoạt động của các nhóm. Giáo viên không
nên đứng một chỗ trên bàn giáo viên hoặc bục giảng để quan sát lớp học. Việc di
chuyển của giáo viên có hai mục đích cơ bản: quan sát bao quát lớp, làm cho học
sinh hoạt động nghiêm túc hơn vì có giáo viên tới; kịp thời phát hiện những
nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc tranh thủ chọn ý kiến kém
chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần
thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để
yêu cầu trình bày sau cùng.
6.5. Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên
Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng
một vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt
ý đồ dạy học. Một câu hỏi tốt là một câu hỏi kích thích, một lời mời đến sự
kiểm tra chăm chú nhiều hơn, một lời mời đến một thí nghiệm mới hay một bài tập
mới… Người ta gọi những câu hỏi này là câu hỏi "mở" vì nó kích thích
một "hành động mở". Các câu hỏi "mở" khuyến khích học sinh
suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu
hỏi đó. Các câu hỏi dạng này cũng mang đến cho nhóm một công việc và một sự lập
luận sâu hơn. Còn các câu hỏi "đóng" là các câu hỏi yêu cầu một câu
trả lời ngắn.
Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ
phần trả lời của mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng.Và các câu hỏi
đặt ra để yêu cầu học sinh suy nghĩ hành động thì cần phải được chuẩn bị tốt và
bắt buộc phải là những câu hỏi "mở".
6.5.1. Câu hỏi nêu vấn đề
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến
thức. Là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề của bài học
nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề thường là câu hỏi nhằm mục đích hình thành
biểu tượng ban đầu của học sinh. Giáo viên phải đầu tư suy nghĩ và cẩn trọng
trong việc đặt câu hỏi nêu vấn đề vì chất lượng của câu hỏi sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến ý đồ dạy học ở các bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự
thành công của bài học.
6.5.2. Câu hỏi gợi ý
Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của học sinh.
Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi
"đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn
hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh.
Khi đặt câu hỏi gợi ý, giáo viên nên dùng các cụm từ bắt đầu như
"Theo các em", "Em nghĩ gì…", "Theo ý em…"… vì
các cụm từ này cho thấy giáo viên không yêu cầu học sinh đưa ra một câu trả lời
chính xác mà chỉ yêu cầu học sinh giải thích ý kiến, đưa ra nhận định của các em
mà thôi.
6.6. Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Vấn đề rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh được phân thành hai mảng
chính đó là rèn luyện ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Dạy học theo phương pháp
BTNB là sự hòa quyện 3 phần gần như tương đương nhau đó là thí nghiệm, nói và
viết. Học sinh không thể làm thí nghiệm mà không suy nghĩ và các em thể hiện
suy nghĩ bằng cách thảo luận (nói) hoặc viết.
- Nói: Phương pháp BTNB khuyến khích trao
đổi bằng ngôn ngữ nói về những quan sát, những giả thuyết, những thí nghiệm và
những giải thích. Một số học sinh có khó khăn về ngôn ngữ nói trong một số lĩnh
vực nào đó đã phát biểu ý kiến một cách tự giác hơn khi các thao tác trong hoạt
động khoa học bắt buộc chúng phải làm việc tập thể và phải đối mặt với các hiện
tượng tự nhiên. Học sinh học cách bảo vệ quan điểm của mình, biết lắng nghe
người khác, biết thừa nhận trên cơ sở của lí lẽ, biết làm việc cho mục đích
chung của một khuôn khổ nhất định.
- Viết: Văn phong (lối viết) là cách thức thể hiện ra ngoài những
hoạt động suy nghĩ của mình. Nó cũng cho phép giữ lại dấu vết của các thông tin
đã thu nhận được, tổng hợp và hình thức hóa để làm nảy sinh ý tưởng mới. Nó
cũng làm cho thông báo được dễ dàng tiếp nhận dưới dạng đồ thị vì thông tin đôi
khi khó phát biểu và cho phép ghi lại các kết quả tranh luận.
- Chuyển từ nói sang viết: Chuyển từ một cách thức thông báo này
sang một cách thức thông báo khác là một giai đoạn quan trọng. Phương pháp BTNB
đề nghị dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể
những câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các
cách thức viết khác nhau.
6.7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh
Khi chọn ý tưởng và nhóm ý tưởng của học sinh giáo viên cần chú
ý những điểm sau:
- Cho học sinh phát biểu ý kiến tự do và tuyệt đối không nhận
xét đúng hay sai các ý kiến đó ngay sau khi học sinh phát biểu.
- Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt,
giáo viên nên ghi chú lại ở một góc trên bảng để học sinh dễ theo dõi.
- Đối với những biểu tượng ban đầu được học sinh trình bày bằng
hình vẽ, sơ đồ… thì giáo viên quan sát và chọn một số hình vẽ tiêu biểu, có
những điểm sai lệch nhau rõ rệt để dán lên bảng, giúp học sinh dễ so sánh, nhận
xét.
- Khi yêu cầu học sinh trình bày, nên cho những học sinh có ý
tưởng sai lệch nhiều với kiến thức đúng trình bày trước, những học sinh có ý
kiến tốt hơn trình bày sau. Giáo viên không nhận xét ý kiến của học sinh khi
học sinh phát biểu. Từ các sự khác biệt của các ý tưởng sẽ giúp học sinh thắc
mắc vậy ý tưởng nào là đúng, làm sao để kiểm chứng nó… Đó là mâu thuẫn nhận
thức để giúp học sinh đề xuất ra các thí nghiệm kiểm chứng hoặc các phương án
tìm ra câu trả lời.
- Khi yêu cầu học sinh phát biểu, nêu ý kiến (ý tưởng), giáo
viên cần chú ý về mặt thời gian, hướng dẫn học sinh cách trả lời thẳng vào câu
hỏi, không kéo dài, trả lời vòng vo mà cần trả lời gắn gọn đủ ý. Làm như vậy sẽ
tiết kiệm được thời gian của tiết học, đồng thời sẽ giúp học sinh rèn luyện
được suy nghĩ, ý tưởng của mình về mặt ngôn ngữ.
- Khi yêu cầu học sinh khác nhận xét ý kiến của học sinh trước,
giáo viên nên yêu cầu học sinh nhận xét theo hướng "đồng ý và có bổ
sung" hay "không đồng ý và có ý kiến khác" chứ không nhận xét
"ý kiến bạn này đúng, bạn kia sai".
- Giáo viên cần tóm tắt ý tưởng của học sinh khi viết ghi chú
lên bảng.
6.8. Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm
câu trả lời
Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả
lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kỹ
năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội
dung của bài học. Tùy từng trường hợp cụ thể mà giáo viên có phương pháp phù
hợp, tuy nhiên cần chú ý mấy điểm sau:
- Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng
minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học sinh
đề xuất
- Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất
phát từ những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (biểu tựong ban đầu) của học
sinh, vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để
giúp học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương
án để tìm ra câu trả lời.
- Đối với học sinh tiểu học, giáo viên nên giúp các em suy nghĩ
đơn giản với các vật liệu thí nghiệm thân thiện, quen thuộc, hạn chế dùng những
thí nghiệm phúc tạp hay dùng những vật dụng thí nghiệm quá xa lạ đối với học
sinh.
- Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên
không nên nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh
khác nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo
viên gợi ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm
gợi ý để học sinh tự rút ra nhận
xét và
loại bỏ phương án. Giáo viên cũng có thể ghi chú trên bảng một lượt các ý kiến
khác nhau rồi yêu cầu cả lớp cho ý kiến nhận xét.
- Giáo viên cũng nên chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống học sinh
không nêu được phương án tìm câu trả lời hoặc các phương án đưa ra quá ít,
nghèo nàn về ý tưởng (đối với những trường hợp có nhiều phương án tìm câu trả
lời). Với trường hợp này giáo viên chuẩn bị sẵn một số phương án để đưa ra hỏi
ý kiến của học sinh.
6.9. Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm
Vở thí nghiệm không phải là vở nháp cũng không phải là vở ghi
chép thông thường của học sinh.
Vở thí nghiệm không phải là cuốn vở để giáo viên dùng để
sửa lỗi của học sinh mà nhằm mục đích chính là để học sinh tự do diễn đạt suy
nghĩ, ý kiến của mình thông qua ngôn ngữ viết.
Vở thí nghiệm được lưu giữ và được giáo viên xem xét như là một
phần biểu hiện sự tiếp thu kiến thức, thái độ học tập, làm việc của học sinh.
Thông qua vở thí nghiệm, giáo viên có thể nhìn nhận được quá trình tiến bộ của
học sinh trong học tập. Giáo viên, phụ huynh có thể nhìn vào các ghi chú để tìm
hiểu xem học sinh có hiểu vấn đề không, tiến bộ như thế nào (so với trước khi
học kiến thức), có thể nhận thấy những vấn đề học sinh chưa thực sự hiểu. Và
thậm chí học sinh có thể nhìn lại những phần ghi chú để nhận biết mình đã tiến
bộ như thế nào so với suy nghĩ ban đầu, giúp học sinh nhớ lâu hơn và hiểu sâu
hơn kiến thức.
Vở thí nghiệm là một đặc trưng quan trọng trong thực hiện phương pháp BTNB.
Thông qua việc ghi chép trong vở thí nghiệm, học sinh được tập làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học và giáo viên cũng giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ
viết thông qua cuốn vở này.
6.10. Hướng dẫn học sinh phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên
cứu để đưa ra kết luận
Khi làm thí nghiệm hay quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm
ra câu trả lời, giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết chú ý đến các thông tin
chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi. Đối với học sinh tiểu học vấn
đề này hoàn toàn không đơn giản. Học sinh cần được hướng dẫn làm quen dần dần.
Giáo viên cần chú ý mấy điểm sau:
- Lệnh thực hiện phải rõ ràng, gắn gọn, dễ hiểu để giúp
học sinh nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn.
- Quan sát, bao quát lớp khi học sinh làm thí nghiệm. Gợi ý vừa
đủ nghe cho nhóm khi học sinh làm sai lệnh hoặc đặt chú ý vào những chỗ không
cần thiết cho câu hỏi. Không nên nói to vì sẽ gây nhiễu cho các nhóm học sinh
khác đang làm đúng vì tâm lý học sinh khi nghe giáo viên nhắc thì cứ nghĩ là
giáo viên đang hướng dẫn cách làm đúng và nghi ngờ vào hướng thực hiện mà mình
đang làm.
- Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau học
sinh có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành
khác nhau theo quan niệm của các em, giáo viên không được nhận xét đúng hay sai
và cũng không có biểu hiện để học sinh biết ai đang làm đúng, ai đang làm sai.
Khuyến khích học sinh độc lập thực hiện giữa các nhóm, không nhìn và học theo
nhau.
6.11. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa
học
Trong hoạt động học của học sinh theo phương pháp BTNB, học sinh
khám phá các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên theo con đường mô phỏng
gần giống với quá trình tìm ra kiến thức mới của các nhà khoa học. Học sinh đưa
ra dự đoán, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với nhau và đưa ra kết luận như
công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến thức. Giáo viên ngoài
việc hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức, cũng nên giới thiệu thêm sách,
tài liệu hay thông tin trên internet mà học sinh có thể có điều kiện tiếp cận
được để giúp các em hiểu sâu hơn các kiến thức được học, không bằng lòng và
dừng lại với những hiểu biết yêu cầu trong chương trình. Điều này rất cần thiết
đối với các học sinh khá, giỏi, học sinh ham thích tìm hiểu.
Sự hướng dẫn này chỉ là gợi ý cho những học sinh ham thích tìm
hiểu chứ không phải là một yêu cầu bắt buộc cho cả lớp. Về nguyên tắc, học sinh
hiểu và nắm bắt được các kiến thức yêu cầu ở mức độ của chương trình đưa ra là
đủ.
6.12. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn
bột”
Một số gợi ý để giáo viên áp dụng đánh giá học sinh trong dạy
học theo phương pháp BTNB, tùy hoàn cảnh trong quá trình dạy học.
- Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát
biểu ý kiến tại lớp học.
- Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm.
- Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh
trong vở thí nghiệm.
Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp BTNB là giúp cho học sinh rèn luyện các
kỹ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là
việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học
sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kỹ năng, kiểm tra năng lực nhận thức
(sự hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức.
7. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học
- Liệt kê
các bài học có thể áp dụng phương pháp BTNB.
- Giáo
viên cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn.
- Vận dụng
tối đa những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm.
- Sử dụng
CNTT cho bài dạy áp dụng phương pháp BTNB đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí.
- Với một
số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh bằng những
phiếu giao việc, tự học sinh chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.
*
Xây dựng tiết học theo các gợi ý:
- Mục tiêu
bài học.
- Hoạt
động có thể áp dụng phương pháp BTNB.
- Phương
pháp thí nghiệm sử dụng.
- Thiết bị
cần có.
- Những
thí nghiệm có thể thực hiện.
* Tổ
chức lớp học:
- Sắp xếp
bàn ghế cho phù hợp với số học sinh.
- Chia nhóm từ 4-6 em/nhóm.
- Có chỗ dành riêng để vật liệu lớp học.
* Trong quá trình giảng dạy
Lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo
luận:
-
Không chọn hoàn toàn các quan niệm đúng
-
Tuyệt đối không bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai của các ý kiến ban
đầu
- Lựa
chọn các quan niệm vừa đúng vừa sai
- Chọn
vị trí thích hợp đề gắn các bài vẽ của học sinh…
+ Không nên sử dụng SGK khi học bằng phương pháp BTNB.
+ Không nêu tên bài học trước khi học (với những bài
thể hiện nội dung bài học ở đề bài).
+ Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp BTNB
để áp dụng, không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp.
+ Lưu ý về Kĩ thuật thảo luận nhóm
* Lựa chọn phương
pháp thí nghiệm phù hợp:
- Phương pháp quan
sát tranh ảnh, quan sát vật thật
- Phương pháp mô
hình
- Phương pháp nghiên
cứu tài liệu
- Phương pháp thí
nghiệm trực tiếp
- Sử dụng phương pháp thường
xuyên để rèn thói quen cho học sinh. Rèn cho học sinh kĩ năng diễn đạt rõ ràng,
ngắn gọn để đảm bảo thời gian. Sưu tầm tài liệu, sách, tranh ảnh …. phục vụ cho
bài học.