tin tức-sự kiện

Ông Nghè Sổ ở làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang

Ông Nghè Sổ ở làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình

Nguyễn Đình Tuân (1867-1941; thường gọi là ông Nghè Sổ) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang), đỗ Đình nguyên khoa thi năm Tân Sửu 1901 thời Nguyễn. Làng Trâu Lỗ có ba tên gọi từ xưa tới nay: làng Sổ, Trâu Lỗ và Ba Lỗ.

Thân sinh ra ông là cụ Nguyễn Đình Khiêm, một nhà nho nghèo, đỗ tú tài, đứng thứ hai khoa thi Hương năm Giáp Tý 1864. Cụ Khiêm là một bậc nho học uyên thâm ngạch trực, nhân hậu, liêm khiết.

Từ thuở thiếu thời đến khi trưởng thành rồi trí sỹ, cuộc đời Nguyễn Đình Tuân đều gắn bó với quê cha đất tổ làng Trâu Lỗ. Còn nơi chôn rau cắt rốn lại ở làng Thù Sơn có tên Nôm là làng Thùa, nay thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa. Cũng vì sinh ra ở làng Thùa nên cụ Tú Khiêm đã đặt tên con trai mình là Thùa với ý nguyện giữ mãi kỷ niệm nơi ông mở trường dạy học.

Thuở nhỏ, ông nổi tiếng là thông minh dĩnh ngộ và rất giỏi thơ. Năng khiếu bẩm sinh cùng sự kèm cặp nghiêm khắc theo khuôn phép đạo Khổng của người cha đã chắp cánh cho sự nghiệp văn chương của ông sớm hanh thông và thành đạt. Có thể nói, với 75 tuổi đời, ông đã ngót 70 tuổi thơ. Năm 6 tuổi học thuộc Tam Tự Kinh trong 18 ngày. Năm 16 tuổi thi Hạch phủ, đỗ thứ hai trong 96 người. Do vậy ông nổi tiếng thần đồng. Năm 18 tuổi ông đi dạy học, làm gia sư. Năm Đinh Dậu 1897, ông đi thi Hương đỗ Cử nhân, đạt điểm cao nhất trong số 10 người của xứ Kinh Bắc. Năm 35 tuổi ông đi thi Hội tại Kinh đô Huế. Khoa thi năm Tân Sửu (1901) cả nước có 9 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, ông đỗ đầu – Đình nguyên (nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên). Danh sách 9 người đỗ ghi trong Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái năm thứ 13 (1901) đặt trong khu Văn Khánh thuộc cố đô Huế. Cùng khoa thi có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thi đỗ với học vị Phó bảng.

Theo lệ xưa, những tiến sĩ tân khoa, khi vào chơi vườn thượng uyển mỗi người được hái một bông hoa mà mình ưa thích. Ai hái bông nào, vua sẽ cho đánh bằng vàng to đúng bằng bông hoa thật để tặng cho vị đó. Hầu hết các vị tiến sĩ đều hái những bông hoa to: hồng, cúc đại đóa... Có vị còn hái cả hoa dâm bụt. Riêng Nguyễn Đình Tuân chỉ hái bông hoa mai. Điều đó đã nói lên cốt cách cao quý của ông, vì hoa mai là biểu tượng của các bậc quân tử.

Cuộc đời làm quan của ông Nghè Sổ cũng nhiều phen lên bổng xuống trầm và chủ yếu là làm học quan. Đỗ đạt vinh quy, ông không muốn đi vào nghiệp hoạn lộ. Mãi sau hai năm thi đỗ, tức năm 1903, ông mới chịu nhậm chức Tri huyện Việt Yên và nổi tiếng là một ông quan thanh liêm. Chưa đầy hai năm làm Tri huyện, ông xin cáo quan về nghỉ vì mâu thuẫn với viên Đại lý người Pháp (một chức quan dưới Công sứ, phụ trách một vùng vài phủ huyện). Một năm sau, ông lại nhận được chỉ đi nhậm chức Giáo thụ tỉnh Yên Bái. Sau đó lại được đổi về làm Đốc học tỉnh Ninh Bình, rồi Đốc học trường Quy Thức, Hà Nội. Do ông giao du, kết bạn với các nhân sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục như Nguyễn Thượng Hiền, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Quyền, Ngô Đức Kế nên khi trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đàn áp thì trường Quy Thức cũng bị giải tán. Ông Nghè Sổ lại về làm Đốc học tỉnh Ninh Bình, sau đó đổi ra làm Đốc học tỉnh Hà Đông ngót 10 năm.

Từ khi làm giáo thụ tỉnh Yên Bái rồi làm Đốc học nhiều tỉnh trong nhiều năm liền, ông Nghè Sổ nổi tiếng là thầy hay chữ, có nhiều học trò đỗ đạt, đồng thời cũng nổi tiếng là người đức độ, vừa nghiêm khắc vừa khoan hòa, nhất là không kết thân với Pháp, không biết chiều theo ý quan trên (câu ghi trong gia phả), lúc nào cũng giữ vững nhân cách hanh cao của một nhà nho chân chính. Ông luôn cố gắng tận tâm cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài, xứng đáng với vị trí của một người thầy mẫu mực.

Thời gian làm Đốc học Hà Đông ông bị cái vạ thủ bò - thủ bò chi họa. Năm 1910 gặp kỳ thu tế Đức Khổng Tử, nhận được giấy sức của Bộ Lễ, Nguyễn Đình Tuân thông sức cho văn hội của mình đến tế tại Văn Miếu. Tế xong, hội bàn chia phần, có người nêu ý kiến đặt cái đầu bò thui lên hương án sơn son thiếp vàng, rồi che lọng khiêng đến biếu quan Tổng đốc gọi là lộc thánh. Cụ Tuân nghe theo, viên Tổng đốc nhận lễ rất hài lòng. Nhưng sau đó vài ngày ở cổng trường học của Nguyễn Đình Tuân xuất hiện một bài thơ Vịnh thủ bò ghi rõ nhờ gửi đến quan Tổng đốc. Nội dung bài thơ: Ơn nhờ cha mẹ được làm to, Văn chương chữ nghĩa dốt như bò, Thôi thôi thu xếp về đi chứ, Ở lại làm chi chúng chửi cho. Bài thơ lan truyền nhanh đến tai Tổng đốc, viên Tổng đốc cay cú lắm chờ dịp trả thù. Đầu năm sau nhân kỳ thăng thưởng, Thống đốc vui vẻ báo tin cho Nguyễn Đình Tuân: Phủ Thống sứ đặc cách cử quan lớn lên làm Án sát tỉnh Cao Bằng. Lên Cao Bằng được 3 tháng, ngán ngẩm về thói đời nhỏ nhen và để tránh hậu họa ông đã cáo bệnh từ quan về làng dạy học và bốc thuốc.

Sau một thời gian cáo quan về quê bốc thuốc, dạy học ông lại nhận được chỉ đi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh. Ở Bắc Ninh được thời gian ngắn, ông lại bị đổi lên làm Án sát tỉnh Thái Nguyên, sau đó kiêm chức Tuần phủ Thái Nguyên cho đến ngày về hưu.

Tháng 2 năm 1384, vua Trần Phế Đế mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc, núi Tiên Du, Bắc Ninh, Đoàn Xuân Lôi người làng Sổ đã đỗ đầu trong số 30 Tiến sĩ. Ở đồng bằng Bắc Bộ hiếm có làng có hai người đỗ đầu trong hai kỳ thi thời phong kiến.

Trong số hậu duệ ông Nghè có ông Nguyễn Tái Chương, cán bộ tiền khởi nghĩa, đỗ Cử nhân, nhà giáo lão thành là con trai duy nhất của ông Nghè; ông Ngô Duy Phương, cán bộ lão thành cách mạng, những năm 1960 đã làm Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang, là con rể út của ông Nghè; bà Nghiêm Chưởng Châu, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Giáo dục, là cháu ngoại ông Nghè và nhiều người là trí thức, cán bộ trung cao cấp phần đông đang sống và công tác ở Hà Nội.

Đương thời ông sáng tác nhiều thơ văn, soạn nhiều văn bia, câu đối cho các địa phương nơi mình cư quan nhậm chức nhưng đến nay bị thất lạc nhiều. Di văn của ông, hiện tồn tại trên các di tích nơi ông từng qua thăm viếng. Thơ ông chủ yếu là những bài mừng tặng, thăm hỏi thân nhân bằng hữu, ca tụng cảnh trí thiên nhiên mỹ lệ.

Tác phẩm đồ sộ nhất ông để lại cho hậu thế là bộ sử mang tên Đại Nam quốc sử cải lương bao gồm gần 800 trang chữ Hán, ghi lại lịch sử nước nhà từ thời Hồng Bàng đến đầu thế kỷ 20. Sách chưa được dịch ra tiếng Việt, nhưng được các học giả đánh giá cao về giá trị của một bộ sử được biên soạn cuối cùng dưới thời phong kiến. Hậu duệ của ông nên tổ chức dịch và xuất bản bộ sử rất có giá trị này.

Một tác phẩm nổi tiếng khác của Nguyễn Đình Tuân là bài Văn sách thi Đình, nội dung trả lời vua về việc cai trị thiên hạ, đưa ra nhiều kế sách cho các bậc đế vương trị nước và cũng đề cập đến nhiều lĩnh vực của xã hội đương thời. Lời đối sách khá dài, đề cập đến nhiều lĩnh vực của xã hội, sau đây là một vài trích đoạn:

Dám thưa! Kẻ bề tôi từng nghe dùng hình phạt với dân và vẫn ẩn chứa điều thiện, dùng văn trị lại thuận theo thời thế để thi hành cho phù hợp là cách cai trị của các bậc thánh vương đời trước. Trộm nghĩ, bậc thánh vương phải tùy thời mà trị dân, nhưng cũng chỉ có hai vấn đề cốt yếu là dùng Hình luật và Giáo hóa. Ôi! cái nghĩa của chữ tùy thời lớn lao làm sao. Các bậc thánh vương nhân thời thế, thời cuộc mà định ra chính sách. Thiên hạ không công bằng thì lấy Hình luật mà làm cho cân bằng khoảng cách thấp cao. Phong tục chưa tốt thì giáo hóa để ngày thêm thuần hậu. Phàm xem xét việc định ra kế trị nước và thi hành đạo trị nước, tất yếu phải biết tùy nghi, khéo léo ứng xử theo thời thế. Xét về kinh điển, có câu rằng: Phải quan sát tình hình dân chúng mà thiết định phương pháp giáo hóa. Về cách thức làm người trị nước, sách truyện có câu: Lãnh đạo dân chúng, phải công bằng về pháp luật. Trong việc giáo hóa dân chúng, phải xem xét thiên hạ, biết được sự đổi thay của xã hội, từ đó hiểu được đời sống của dân chúng rồi đặt ra sự giáo hóa... Làm được như vậy thì dân chúng sẽ nghiêm cẩn mà có lòng tin, pháp luật sẽ bồi bổ cho việc trị nước. Làm chính sự mà lấy đạo để thi hành, bình đẳng về pháp luật thì dân chúng tránh được tội lỗi mà hiểu rõ được lễ nghĩa, liêm sỉ...

Hình luật là để đất nước bình yên... việc hưng thịnh hay rối loạn của đất nước đều ở tay người cầm quyền. Hình luật có chỗ khác nhau, quyền là do tình thế mà giữ cho cân. Nước tràn, lửa cháy có cách xử lý của nó. Cho nên dùng đức để cai trị, không câu nệ, không thiên lệch, thì cái đẹp của đức ấy tự làm cho xã hội không sinh ra cái tệ bè đảng...

Dựng nhà học, lại mời các danh nho đến dạy, thì dù không có phép tắc thời Tam đại, người ta vẫn kéo đến học một cách đông đảo, nhàn nhã. Thành tựu của sự học là đáng quý lắm. Sở dĩ đạo trị nước cần đề cao sự học cũng bởi nó làm cái gốc của thiên hạ thái bình vậy...


Bài "Tự cổ danh sơn tú" treo trên Bàn thờ của Đền Ia

Khải Định Quý Hợi hạ (1923) Nguyễn Đình Tuân có làm bài thơ Tự cổ danh sơn tú ghi trên bức hoành phi treo ở Đền IA, huyện Hiệp Hòa, ca ngợi công đức của Thánh Hùng Linh Công được thờ trong Đền. Phiên âm nội dung bài thơ: Tự cổ danh sơn tú, Anh chung cái thế hào, Việt Nam hồng hữu duệ, Giang Bắc nhạn vô sào, Kiến tiết hùng đãng trọng, Bình tàn vũ lược cao, Thiên thu hoàn tụ xứ, Trường thử úy quần cao. Dưới bài thơ ông tự ghi danh: Tân Sửu Đình nguyên Bắc Ninh Án sát Trâu giang Hữu mai Nguyễn Đình Nguyên bái đề. Dịch thơ:

Chùa cổ tô núi thắm

Danh thơm rạng công hầu

Việt Nam hồng đắp tổ

Giang Bắc nhạn về đâu

Dựng nước ngời văn hiến

Diệt thù tỏ tài cao

Ngàn năm miền hội tụ

Vạn thuở nghiệp anh hào

Làng Sổ có Đền Sổ [6] được nhà nước cấp bằng Di tích kiến trúc nghệ thuật từ năm 1964, năm 1674 triều đại Lê Gia Tông đã có sắc phong cho ngôi đền. Trong đền trên cửa cung cấm, trước hậu cung treo bức đại tự do Nguyễn Đình Tuân cung tiến vào năm 1923 đề 4 chữ Hán Hệ xuất thần minh (nghĩa là các thế hệ nối tiếp noi gương sáng của thần) để ca ngợi công lao và khí tiết của Đức Thánh Tam giang - Trương Hống, Trương Hát.

Tác giả: Ngô Văn Khương

Xem thêm

Tư duy tích cực
Niềm vui ngày khai trường
Lịch tập huấn phần mềm hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục
Ngày hội đến trường
Ngày hội khai trường