tin tức-sự kiện

Báo cáo SKKN- Đỗ Thị Tuyết Nhung

BÁO CÁO KẾT QUẢ

NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu

        Luật giáo dục đã xác định “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ….chuẩn bị cho việc học tiếp lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Với vai trò là cấp học nền tảng, giáo dục tiểu học phải “nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu và lâu dài về đạo đức, trí tuệ… để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Để đáp ứng yêu cầu trên, giáo dục Tiểu học đưa vào trong chương trình nhiều môn học, trong đó môn Đạo đức.

      Mục tiêu của môn Đạo đức ở trường Tiểu học nhằm giúp học sinh:

      - Có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó.

      - Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.

      - Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.

         Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục phổ thông đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Nên việc hình thành và phát triển kĩ năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người hiện đại. Đặc biệt, với học sinh lớp 1, kĩ năng sống giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân, bạn bè, xã hội, giúp các em biết sống có khoa học, có mục đích để trở thành con ngoan trò giỏi và là công dân tốt của xã hội.

         Qua  thực  tế giảng dạy, tôi  nhận  thấy  môn Đạo đức ch­ưa đ­ược giáo viên  quan tâm nhiều từ việc dành thời gian chuẩn bị đến việc tổ chức các hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh trên lớp. Vì thế hiệu quả giảng dạy môn Đạo đức bị hạn chế, học sinh chư­a có hứng thú học, giờ học chưa đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, các chuẩn mực hành vi, các kĩ năng sống của học sinh chỉ được học qua tình huống sách vở mà không được phát triển thành các kĩ năng.

                                                                                                             

2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 qua môn Đạo đức”.

3. Tác giả sáng kiến:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

Mạch kiến thức dạy học về môn Đạo đức ở Tiểu học nói chung và môn Đạo đức ở lớp 1 nói riêng. Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết như:

           + Góp phần hình thành các kĩ năng sống và phát triển trí tuệ, sự sáng tạo  trong quá trình học tập của học sinh.

 + Rèn cho các em có khả năng tư duy tốt.

 + Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin.

6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử

Ngày 31/8/2016 đến 15/02/2017

7. Mô tả bản chất của sáng kiến

7.1. Cơ sở lí luận

7.1.1. Quan điểm về kĩ năng sống

    Thuật  ngữ kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những năm 1995 – 1996. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với giáo dục các vấn đề xã hội khác.

      Vậy kĩ năng sống là gì ?

      Theo định nghĩa Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”. Giải thích một cách dễ hiểu, đó là khả năng nhận thức bản thân (biết mình là ai, sinh ra để làm gì, mình mạnh gì, yếu gì, mình có thể làm được những gì,…); biết làm chủ cảm xúc để lựa chọn hành động đúng mực và ứng xử phù hợp; biết hoạch định tương lai thông qua việc đề ra những mục tiêu và quyết tâm theo đuổi; khi đối diện khó khăn hoặc chuyện bất như ý thì biết cách tự tạo động lực để vượt qua; còn lúc thất bại, biết rút bài học kinh nghiệm và tự đứng dậy bước tiếp. Hoặc có thể dùng một từ đơn giản để mô tả, đó chính là lỗ lực trong bản thân mỗi người.

      Trong tài liệu về giáo dục Kĩ năng sống hợp tác với UNICEF (Bộ giáo dục và đào tạo), phân loại kĩ năng sống thành 3 nhóm:

       + Kĩ năng nhận biết và sống với chính mình gồm: kĩ năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với căng thẳng.

       + Những kĩ năng nhận biết và sống với người khác bao gồm: kĩ năng quan

hệ / tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu cực của bạn bè hoặc của người khác, thương lượng giao tiếp có hiệu quả.

       + Các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả bao gồm các kĩ năng: Tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.

       Bên cạnh kĩ năng sống cần phải rèn luyện còn có kĩ năng vốn có. Đó là kĩ năng mềm. Đây là kĩ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc (EQ) của con người như: tính cách, sự tế nhị, thói quen, kĩ năng ứng xử…Những kĩ năng này không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn nhưng không phải là kĩ năng đặc biệt.

       Như vậy kĩ năng sống và kĩ năng mềm không hoàn toàn  là một nhưng giữa chúng có nhiều phần chung. Kĩ năng mềm là một phần nội dung cơ bản của kĩ năng sống.

        Để hiểu và biết được tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống, chúng ta cùng nhìn vào sơ đồ sau:

        Để hạnh phúc và thành công, bên cạnh việc có tri thức thì vai trò của kỹ năng sống là rất quan trọng. Riêng ở Việt Nam chúng ta thì  lại càng đáng quan tâm hơn. Bởi nhiều lý do, trong đó có lý do thuộc về chương trình giảng dạy trong nhà trường hiện nay vẫn còn quá tập trung vào phát triển trí dục; còn đức dục, thể dục và mỹ dục chưa được chú trọng đúng mức.

7.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống qua môn đạo đức lớp 1

Bác Hồ đã từng dạy chúng ta “Người có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đối với ngành giáo dục, Người luôn nhắc nhở “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức”. Do vậy giáo dục đạo đức là một bộ phận rất quan trọng trong quá trình dạy học, là mặt trận hàng đầu của các trường phổ thông. Đặc biệt ở bậc Tiểu học lại càng quan trọng hơn vì đây là lứa tuổi từ 6 – 10, suy nghĩ của các em còn non nớt, kinh nghiệm sống còn ở trình độ thấp. Tư duy cụ thể còn chiếm vai trò quan trọng, có tính “bắt chước” nên cung cấp cho các học sinh những chuẩn mực đạo đức  là nền tảng để các em hình thành nhân cách. Từ đó, bồi dưỡng kĩ năng sống cho các em.

      Hay nói cách khác, giáo dục kĩ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kĩ năng, giá trị cá nhân thích hợp với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục kĩ năng sống là làm thay đổi hành vi của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả.

       Do đặc trưng của môn học nên môn Đạo đức lớp 1 có khả năng giáo dục nhiều kĩ năng cho học sinh như:

        + Nhóm kĩ năng xã hội gồm: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng hợp tác….

        + Nhóm kĩ năng nhận thức: kĩ năng ra quyết định, kĩ năng phê phán và giải quyết vấn đề …

       + Nhóm  kĩ năng quản lí bản thân: kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng quản lí thời gian, kĩ năng vượt qua lo lắng, sợ hãi ……

       Đối với học sinh lớp 1 việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này.

        Chính vì vậy, dạy kĩ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng hiện nay là mục tiêu quan trọng của Bộ GD - ĐT từ năm học 2010. Bản thân mỗi giáo viên trực tiếp đứng lớp như tôi luôn trăn trở không những dạy văn hoá cho các em mà còn phải biết vận dụng, khắc sâu vốn hiểu biết, nhận thức để giáo dục các em ứng xử phù hợp với mọi tình huống. Thông qua môn Đạo đức, giáo dục kĩ năng sống là cung cấp cho các em vốn hiểu biết làm nền tảng vững chắc để các em tiếp bước trên con đường tiếp nhận tri thức, hoàn thiện nhân cách của mình.

        Nội dung của môn Đạo đức kết hợp giữa giáo dục quyền với giáo dục trách nhiệm bổn phận của học sinh. Chính vì vậy, khi dạy Đạo đức tôi luôn quan tâm đến việc lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống phù hợp với từng bài cho các em. Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải có tâm huyết, phải dành nhiều thời gian nghiên cứu tiết dạy và biết kết hợp các hình thức tổ chức, các phương pháp dạy học cho phù hợp, hiệu quả.

7.2. Thực trạng của việc dạy – học môn Đạo Đức lớp 1 ở trường Tiểu học

Trên thực tế, với sức ép của thành tích, của nhà trường, của phụ huynh học sinh nên giáo viên thường chú trọng quan tâm vào hai môn học Toán và Tiếng Việt. Chính vì vậy, giờ học các môn khác bị cắt xén, giản tiện đi rất nhiều. Trong đó có môn Đạo đức.

7.2.1. Về phía giáo viên

       Hầu hết giáo viên lớp 1 đều nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong giờ học môn Đạo đức. Trong quá trình dạy học giáo viên đã có ý thức rèn kĩ năng sống cho học sinh, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế  sau:

      Một là: Dạy học một chiều:

      Mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học nhưng đa số giáo viên chưa chú trọng đến các tư liệu dạy học như sưu tầm tranh ảnh, các bài thơ, bài hát, ca dao, tục ngữ… có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức mà các em sẽ học trong chương trình. Thầy chỉ cung cấp kiến thức, trò tiếp thu kiến thức một cách thụ động.  Những lời giảng giải khô khan và lời thuyết trình dài dòng tuy đảm bảo đủ nội dung kiến thức nh­ưng tạo ra sự gò bó, tâm lí mỏi mệt ở học sinh, giờ học tẻ nhạt. Nhiều khi các mẫu hành vi chỉ được xây dựng một cách phiến diện mà chưa có sự phân tích, đánh giá một cách kĩ càng. Vì vậy, các kĩ năng sống không có điều kiện hình thành và phát triển.

      Hai là: Chưa quan tâm đến các đối tượng học sinh:

      Giáo viên  chú ý đến ph­ương pháp giảng dạy nh­ưng chư­a quan tâm đến việc thay đổi các hình thức dạy học.Việc tổ chức học theo nhóm chỉ là hình thức, chủ yếu là các em học sinh giỏi, nhanh nhẹn đ­­ược hoạt động. Cách dạy này tuy bư­­ớc đầu phát huy đ­­ược tính tích cực, tự giác của học sinh như­ng ch­­ưa đ­­ược đều khắp ở tất cả các đối t­­ượng học sinh trong lớp.

     Mặt khác, giáo viên hay có định kiến với những học sinh thường xuyên mắc lỗi mà chưa chú ý đến việc tìm hiểu nguyên nhân tại sao học sinh đó mắc lỗi để giải quyết vấn đề. Sự khẳng định, áp đặt cái sai mà học sinh gây ra tạo nên khoảng cách giữa cô và trò.

       Do còn tồn tại các cách dạy trên nên học sinh học môn Đạo đức ít hứng thú. Sự hồn nhiên của trẻ thơ sẽ dần mất đi. Các em sẽ trở nên rụt rè, ng­ượng nghịu trong giao tiếp, thiếu đi tính năng động và không hinh thành được các kĩ năng trong cuộc sống.

       Ba là : Dạy lồng ghép kĩ năng sống chưa thiết thực, còn hời hợt: 

      Giáo dục kĩ năng sống đã được lồng ghép giảng dạy trong các môn học từ lớp 1 đến 12 nhưng học sinh chưa thật sự thích thú, không cảm thấy thiết thực.Vì giáo viên còn rất lúng túng cứ “cố” để đưa bằng được nội dung kĩ năng sống vào bài học một cách khiên cưỡng, khiến giờ học trở nên nặng nề, khô khan.

       Ngoài ra, những kĩ năng sống mà học sinh được học trong môn Đạo đức hiện nay còn mang nặng tính hình thức, do đó các em chưa chuyển dịch được những kiến thức được học trong nhà trường thành kinh nghiệm sống của bản thân nên thiếu tự tin khi tham gia trực tiếp vào những hoạt động trong gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì vậy,  hiệu quả giáo dục kĩ năng sống không nhiều.

      Vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo viên là trong giờ học môn Đạo đức phải tổ chức, h­­ướng dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tìm tòi, phát hiện kiến thức trên cơ sở đó hình thành kĩ năng nhận thức làm phong phú vốn sống của bản thân, phát triển kĩ năng xã hội phù hợp với lứa tuổi. Từ đó các em biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống hàng ngày một cách hợp lí. Có như­­ vậy những kiến thức về Đạo đức mới trở nên gần gũi, thiết thực, có sức lôi cuốn đối với học sinh.

7.2. 2. Về phía học sinh

      Chúng ta đều biết trẻ em mới sinh ra không phải đã có ngay những hành vi đạo đức, cùng với sự trưởng thành và phát triển của các em do nhiều yếu tố chi phối:

       Một là: Về quá trình nhận thức

       Học sinh lớp 1, tri giác của các em còn mang tính cụ thể, ít đi sâu vào chi tiết. Tri giác đánh giá không gian, thời gian còn hạn chế. Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức. Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn giản, hay thay đổi. Chú ý không chủ định phát triển, chú ý có chủ định còn hạn chế và thiếu tính bền vững. Sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của các hoạt động học tập. Bên cạnh đó, trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ lôgic. Với kiểu ghi nhớ này nếu không được giáo viên nhắc nhở thường xuyên thì các em sẽ nhanh chóng quên và sẽ không nhớ gì nữa trong thời gian vài tuần sau.

      Hai là: Về nhân cách học sinh

      Tính cách của học sinh lớp 1 chưa ổn định. Điển hình là hồn nhiên và cả tin, thích bắt chước hành vi của người xung quanh hay trên phim ảnh…vì các em chưa có khả năng phân biệt được điều đúng – sai trong các chuẩn mực mà các em phải sử dụng để cư xử hàng ngày. Tình cảm của các em còn mỏng manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Kĩ năng giao tiếp của một số em chưa tốt. Khi giáo viên hay người lớn hỏi, các em thường trả lời cộc lốc, không đầy đủ câu. Những câu trả lời như vậy gây cho người hỏi một sự khó chịu không mấy thiện cảm.

      Tóm lại, nếu học sinh không có những kiến thức cần thiết để biết lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó, để vượt qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó, việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng.

7.3. Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 qua môn đạo đức

7.3.1. Xác định mục tiêu, nguyên tắc, nội dung giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo Đức lớp 1

7.3.1.1. Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức lớp 1.

     - Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị thái độ và kĩ năng phù hợp, trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày.

      - Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

      - Giúp các em hiểu, biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống. Học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực.

7.3.1.2. Nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức lớp 1.

       Môn Đạo đức tưởng như là dễ nhưng lại rất khó đối với học sinh tiểu học. Làm thế nào để học sinh có được những thói quen tốt, có những hành vi ứng xử đúng là cả một quá trình rèn luyện lâu dài, thường xuyên, liên tục.

      Theo tôi, kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên (kĩ năng mềm), học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống một con người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính

cuộc đời, những trải nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kỹ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn.

    Chính vì vậy, quá trình lồng ghép kĩ năng sống, tôi tiến hành theo nguyên tắc:

   + Tương tác: Kĩ năng sống được hình thành trong quá trình tương tác với mọi người xung quanh.

    + Trải nghiệm: Kĩ năng sống được hình thành khi người học được trải nghiệm trong các tình huống thực tế.

    + Thay đổi hành vi: Kĩ năng sống giúp người học hình thành hành vi mới tích cực, thay đổi dần, tự loại bỏ hành vi xấu trong chính mình.

     + Tiến trình: Kĩ năng sống không thể được hình thành “ngày một, ngày hai” mà phải có cả quá trình thời gian như: Nhận thức – hình thành thói quen – thay đổi hành vi.

7.3.1.3. Nội dung giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo Đức lớp 1.
      Để việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả, cần phải thay đổi tư duy, tiếp đó là tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đức lớp 1 theo tôi là giáo dục cách ứng phó với những thử thách nhưng đây mới chỉ là mục đích trước mắt. Mục đích quan trọng và lâu dài đó là hình  thành nhân cách cho học sinh, trong đó quan trọng nhất là giáo dục tình thân ái và cách ứng xử văn hóa. Chính vì vậy, dựa vào 3 nhóm kĩ năng ở trên, tôi đi sâu vào việc hình thành cho học sinh lớp 1 các kĩ năng sau:

    + Kĩ năng tự nhận thức: xác định được giá trị của bản thân, tự tin, tự trọng.

    + Kĩ năng giao tiếp: ứng xử giao tiếp lịch sự.

    + Kĩ năng tư duy, sáng tạo: xử lí thông tin, phân tích – đối chiếu.

    + Kĩ năng ra quyết định: giải quyết vấn đề.

    + Kĩ năng làm chủ bản thân: kiểm soát cảm xúc, đảm nhận trách nhiệm…

    Để lồng ghép tốt các kĩ năng sống trong môn Đạo đức, trước hết người giáo viên cần:

7.3.2. Công tác chuẩn bị

7.3.2.1. Nghiên cứu kĩ cấu trúc chương trình môn Đạo đức lớp 1.

     Theo tôi đây là một việc làm cần thiết, bởi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình của môn Đạo đức sẽ giúp giáo viên có cái nhìn tổng thể, bao quát những nội dung kiến thức mà học sinh cần đạt. Từ đó giáo viên sẽ có những hình thức tổ chức dạy học hợp lý, kết hợp lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh ở từng nội dung học. Qua nghiên cứu, tôi thấy chương trình Đạo đức lớp 1 được thiết kế theo hướng xác định quyền trách nhiệm, bổn phận đối với học sinh. Bao gồm 14 chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với lứa tuổi học sinh theo năm mối quan hệ trong cuộc sống như:

    + Quan hệ của các em với bản thân ở các bài: Em là học sinh lớp Một; gọn gàng, sạch sẽ.

    + Quan hệ của các em với gia đình ở các bài: Gia đình em; Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ.

     + Quan hệ của các em với nhà trường ở các bài: Nghiêm trang khi chào cờ; Đi học đều và đúng giờ; Trật tự trong giờ học; Lễ phép vâng lời thầy giáo, cô giáo; Em và các bạn.

    + Quan hệ của các em với cộng đồng xã hội ở các bài: Đi bộ đúng quy định; Cảm ơn và xin lỗi; Chào hỏi và tạm biệt.

    + Quan hệ của các em với môi trường tự nhiên ở các bài: Bảo vệ cây và hoa nơi cộng cộng.

       Chương trình Đạo đức lớp 1 gồm một hệ thống các chuẩn mực hành vi đạo đức lựa chọn các chuẩn mực ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Cung cấp cho học sinh những hành vi ứng xử đảm bảo tính truyền thống và hiện đại. Bên cạnh đó cấu trúc nội dung Vở bài tập Đạo đức được thiết kế theo hướng mở. Vì vậy, ngoài việc bám sát vào chuẩn kiến thức kĩ năng, điều chính nội dung của môn Đạo đức lớp 1. Đặc biệt qua nghiên cứu nội dung giáo dục kĩ năng sống ở

trên, bản thân tôi đã lựa chọn lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong từng bài cụ thể như sau:

Tên bài

Các kĩ năng sống

Bài 1:

Em là học sinh lớp Một

- Kĩ năng tự giới thiệu bản thân

- Kĩ năng thể hiện sự tự tin trước đông người

- Kĩ năng lắng nghe tích cực.

- Kĩ năng trình bày suy nghĩ/ ý tưởng về ngày đầu tiên đi học, về trường, lớp, thầy giáo…

Bài 2:

Gọn gàng, sạch sẽ.

 

- Kĩ năng nhận xét, đánh giá những biểu hiện chưa gọn gàng, sạch sẽ.

- Kĩ năng tự phục vụ trong việc ăn mặc.

 

Bài 3:

Giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.

- Kĩ năng phê phán, đánh giá những hành vi chưa có ý thức giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập.

Bài 4:

Gia đình em

- Kĩ năng giới thiệu về những người thân trong gia đình.

- Kĩ năng giao tiếp/ ứng xử với những người trong gia đình.

- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để thể hiện lòng kính yêu đối với ông bà , cha mẹ

Bài 5:

Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ.

- Kĩ năng giao tiếp/ ứng xử với anh, chị em trong gia đình.

- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để thể hiện lễ phép với anh chị nhường nhịn em nhỏ.

Bài 7:

Đi học đều và đúng giờ

- Kĩ năng giải quyết vấn đề để đi học đều và đúng giờ

- Kĩ năng quản lí thời gian để đi học đều và đúng giờ.

Bài 8:

Trật tự trong trường học

 

- Kĩ năng tư duy, phê phán những hành vi gây mất trật tự trong lớp học…

 

Bài 9:

Lễ phép với thầy giáo, cô giáo.

 

- Kĩ năng giao tiếp /ứng xử lễ phép với thầy giáo, cô giáo.

 

Bài 10:

Em và các bạn

- Kĩ năng thể hiện sự tự tin, tự trọng trong quan hệ với bạn bè.

- Kĩ năng giao tiếp/ ứng xử với bạn bè

- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông với bạn bè

- Kĩ năng phê phán, đánh giá những hành vi cư xử chưa tốt với bạn bè.

Bài 11:

Đi bộ đúng quy định

- Kĩ năng an toàn khi đi bộ

- Kĩ năng phê phán, đánh giá những hành vi đi bộ không đúng quy định

Bài 12:

Cảm ơn và xin lỗi

- Kĩ năng giao tiếp/ ứng xử với mọi người, biết cảm ơn và xin lỗi phù hợp trong từng tình huống cụ thể.

Bài 13:

Chào hỏi và tạm biệt

- Kĩ năng giao tiếp/ ứng xử với mọi người, biết chào hỏi khi gặp gỡ và tạm biết khi chia tay.

Bài 14:

Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng

- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề trong tình huống để bảo vệ cây và hoa nơi công cộng.

- Kĩ năng tư duy phê phán những hành vi phá hoại cây và hoa nơi cộng cộng.

 

      Theo tôi, đây là những kĩ năng xuyên suốt, cần đạt và không thể thiếu được của học sinh lớp 1. Từ đó có hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và trong các tính huống cụ thể của cuộc sống hàng ngày.    

      Do cấu trúc chương trình các bài Đạo đức sắp xếp lôgíc với nhau, có mối quan hệ mật thiết và hỗ trợ nhau, đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của các em. Vì vậy để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống, đem lại kết quả cao, tôi nhận thấy cần nghiên cứu kĩ tâm lí, tính cách và một số kĩ năng vốn có của các em. Từ đó lựa chọn những biện pháp giáo dục phù hợp.

7.3.2.2. Điều tra cơ bản về kĩ năng sống vốn có của học sinh

       Theo tôi, muốn rèn kĩ năng sống cho học sinh thì việc đầu tiên người giáo viên cần sơ bộ nắm được một số dặc điểm trong tính nết, thói quen sinh hoạt của từng em. Bên cạnh đó, nắm chắc điều kiện, hoàn cảnh của mỗi học sinh đế có những cách tiếp cận cho phù hợp. Chính vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã tiến hành điều tra về điều kiện gia đình học sinh và thu được kết quả như sau:

Nghề nghiệp bố mẹ

Số lượng

Kĩ năng sống của con

Viên chức

4

Bố mẹ có thời gian quan tâm. Biết uốn nắn cho con kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tư duy, kĩ năng cảm xúc.

Công nhân khu công nghiệp

15

Có quan tâm nhưng thời gian còn hạn chế.

Có ý thức rèn con kĩ năng giao tiếp.

Buôn bán

 

 

2

 

Đa phần bố mẹ không có thời gian quan tâm, chăm sóc con. Các con tự lập (tự học, tự chuẩn bị quần áo, tự ăn và tự đến trường …), bước đầu có kĩ năng xây dựng kế hoạch cho bản thân.

Nông dân

9

Có thời gian, có ý thức quan tâm, chăm sóc con. Nhưng đa phần chưa biết cách dạy bảo con một cách khoa học. Kĩ năng cơ bản về giao tiếp còn hạn chế.

       Qua kết quả điều tra cùng với việc quan sát, chú ý đến thái độ, hành vi, thói quen sinh hoạt của học sinh trong lớp. Tôi đã sơ bộ nắm được tính cách, hoàn cảnh của các em. Từ đó, có kế hoạch giáo dục kĩ năng sống cho từng nhóm đối tượng khác nhau. Khi dạy Đạo đức, từng kiến thức liên quan đến đối tượng nào tôi sẽ quan tâm đến đối tượng đó nhiều hơn.

    Tóm lại, điều kiện hoàn cảnh khác nhau tạo nên môi trường sống khác nhau. Vì vậy, khi được sự quan tâm, chăm sóc ở môi trường tốt thì trẻ sớm có được những kĩ năng sống ban đầu. Đặc biệt kĩ năng cơ bản và quan trọng nhất với trẻ dưới 5 tuổi là kĩ năng giao tiếp.

    Ngoài những việc làm trên, tôi con dành thời gian chuẩn bị tư liệu phục vụ cho bài dạy như sau:

7.3.2.3. Sưu tầm tư liệu giảng dạy trong cuộc sống.

      Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học là nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Chính vì vậy khi dạy các bài về Đạo đức để hình thành kĩ năng giải quyết vấn đề và kĩ năng phê phán… nếu có nhiều hình ảnh hấp dẫn, gần gũi với cuộc sống của các em thì giờ học sẽ đạt hiệu quả cao. Hiểu được điều đó, tôi đã thường xuyên tích luỹ vốn hiểu biết về xã hội thông qua những việc làm cụ thể sau:

      Xung quanh ta, cuộc sống đang diễn ra hàng ngày, trong đó chứa đựng nhiều hình ảnh, tình huống cuộc sống xã hội. Nếu chúng ta gần gũi, chịu khó quan sát, nhận xét, chúng ta sẽ tích lũy được nhiều hiểu biết và kinh nghiệm bổ ích. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, những chiếc điện thoại di động đã giúp cho mỗi giáo viên chúng tôi có những bộ tư liệu về ảnh vô cùng quý giá. Mỗi khi nhìn thấy những tình huống đạo đức liên quan đến bài học là tôi chụp ngay. Có thời gian, tôi in màu, nếu không tôi trình chiếu luôn qua máy Projector.

     * Hoặc: Khi dạy bài "Bảo vệ hoa và cây  nơi công cộng - Tiết 2’’

      Với kĩ năng tư duy phê phán những hành vi phá hoại cây và hoa nơi cộng cộng, tôi chụp ngay những bức ảnh thực tế ở trường. Nhìn cảnh các anh chị hoặc bạn mình bẻ cây, ngắt hoa, trèo lên bồn cây, vứt rác ở chậu hoa … Các con có ý

thức nhận ra hành vi sai trái đó

 Tóm lại: Việc tìm hiểu, tích lũy tranh ảnh gần gũi với cuộc sống đời thường sẽ giúp giáo viên thực hiện các hoạt động trên lớp trong giờ Đạo đức cụ thể hơn, học sinh được củng cố và khắc sâu kiến thức, kĩ năng của bài học.

      Ngoài việc chụp hình, sưu tầm tranh ảnh gắn với thực tế, giáo viên còn cần:

Quay phim, sưu tầm băng tư liệu.

       Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại trong giảng dạy không còn là xa lạ. Nếu có những thước phim sống động, hấp dẫn thì sẽ thu hút được sự chú ý, tích cực, chủ động của học

sinh vào hoạt động học tập. Hiểu được điều này, tôi thường xuyên quan sát cuộc sống xung quanh, khi thấy có những cảnh lạ, đặc sắc, phù hợp với nội dung của bài học nào đó, tôi sẽ dùng điện thoại di động chụp hoặc quay luôn. Về nhà, kết hợp với một số phần mềm khác để tạo ra các thước phim có giá trị.

*Ví dụ: Khi dạy bài "Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ  - tiết 2’’

       Để cho học sinh có kĩ năng ra quyết dịnh và giải quyết vấn đề thể hiện lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ, tôi đã đưa 1 clip tự quay vào bài học (Nội dung: Mẹ cho Tuấn đến nhà bà ngoại chơi. Vào đến nhà, Tuấn khoanh tay lễ phép chào bà. Em Nam thấy Tuấn cầm ô tô cứ giãy ra khóc. Tuấn nắm lấy tay mẹ, nằng nặc đòi về). Xem xong, tôi đưa ra câu hỏi:

      + Thấy em khóc, Tuấn có hành động gì ?

      + Nếu con là Tuấn, con sẽ làm gì ?

      Tôi đi sâu vào phân tích hành động của Tuấn để các con nhận ra được trong tình huống này bạn Tuấn có hành động chưa đúng. Nhưng cũng rất ngạc nhiên khi tôi thấy các con cũng phiến diện phê phán hành động của em Nam là không biết chào anh Tuấn khi anh đến chơi. Khi nhận được ý kiến này, tôi đã liên hệ giáo dục các con phải biết chào hỏi khi có khách đến nhà. Rồi mới tiếp tục phân tích câu trả lời thứ hai. Mỗi hành vi tôi đều dành thời gian cho các con phân tích kĩ để nhận ra được điều đó là đúng hay sai. Từ đó các con có ý thức hơn với vấn đề này. Đặc biệt trong cuộc sống các con đã biết nhận ra những hành vi cư xử chưa đúng mực của anh, chị, em trong gia đình. Đó chính là điều mà tôi mong đợi nhất. Qua đó, các em hình thành kĩ năng ứng xử phù hợp với anh, chị, em trong giao tiếp ở cuộc sống hàng ngày.   

* Hoặc: Khi dạy bài "Đi bộ đúng quy định”(tiết 2)

      Để giảng dạy cho học sinh hiểu về tham gia giao thông an toàn ở các ngã tư: có đèn xanh đỏ, có đường dành cho người đi bộ, có biển báo ngược chiều …Tôi đã Downloads video “Giao thông Việt Nam bó tay” trên internet về tình hình giao thông ở Hà Nội cho học sinh phân tích. Qua đó các con vận dụng kiến thức bài học, phân tích và nhận xét các hành vi của người tham gia giao thông rất đúng luật.

      Bên cạnh những đoạn video tự quay hoặc sưu tầm, tôi còn sử dụng những nguồn phim sau:

     + Phim hoạt hình trong “ Quà tặng cuộc sống” của VTV3 Đài truyền hình Việt   Nam.

     + Phim hoạt hình Pokemon cùng em học an toàn giao thông của uỷ ban ATGT quốc gia.

        Tóm lại: Việc được tận mắt chứng kiến các hình ảnh chân thực, gần gũi, sống động qua các đoạn phim tư liệu, phóng sự, các đoạn vi deo cắt ghép ... các kiến thức tưởng chừng xa xôi, khó hiểu hoá gần gũi, cụ thể với học sinh. Kiến thức đến với các em thật nhẹ nhàng, hiệu quả. Qua đó các kĩ năng tư duy, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp… được rèn luyện.

Sưu tầm tư liệu thực tế.

      Đối với học sinh tiểu học đôi khi Học thầy không tày học bạn. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm tôi đã phát động trong học sinh phong trào thi đua Người tốt, việc tốt. Đó là những việc làm thể hiện cách sống đẹp như : nhặt được của rơi trả người đánh mất, giúp đỡ bạn bè lúc khó khăn, ….      Vào các ngày thứ sáu, trong giờ sinh hoạt lớp, tôi luôn dành thời gian tổng kết và biểu dương việc làm tốt của các em. Gương mặt được biểu dương rạng ngời vui sướng, tự hào còn các bạn thì nhìn bạn mình thán phục. Chính vì vậy, lúc đầu việc tốt của các em rất ít nhờ sự biểu dương mà phong trào này càng nở rộ. Qua mỗi việc tốt tôi giáo dục cho các em tính thật thà, lòng trung thực, sự sẻ chia…

      Bên cạnh đó, tôi còn sưu tầm trên internet video, hình ảnh những tấm gương vượt khó giàu nghị lực vươn lên trong cuộc sống như : Phóng sự của Đài truyền hình Việt Nam về những học sinh đồng bào Mông ở Ngải Thầu – Lào Cai phải đi bộ 9 km đến trường trong thời tiết giá rét ; em Bùi Thị Phương ở xóm Thêu, xã Quí Hòa – Lạng Sơn, nhà nghèo nhưng 5 năm liền đạt học sinh giỏi… Và dưới đây là một hình ảnh để lại trong học sinh của tôi ấn tượng sâu sắc nhất. Đó là một cậu bé cụt hai tay nhưng vẫn đi học và viết bằng chân rất đẹp.

        Tóm lại, với những tấm gương người thật, việc thật diễn ra trong cuộc sống hàng ngày có tính giáo dục sâu sắc đối với học sinh lớp 1. Qua đó, rèn cho các con kĩ năng cảm xúc, sự sẻ chia, thông cảm với những khó khăn vất vả của mọi người. Từ đó, xây dựng cho các em kĩ năng đương đầu với khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

7.4. Gần gũi với học sinh, kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục kĩ năng sống qua môm đạo đức

7.4.1. Gần gũi và tạo mối quan hệ thân thiện với học sinh.

     Ngay từ buổi đầu tiên của năm học, bản thân tôi đã tạo ra một môi trường học tập thân thiện, gần gũi với các em. Tôi tự giới thiệu trước học sinh của mình về tên, tuổi, sở thích, ước mơ… Sau đó tôi cho các em tự giới thiệu tên mình cho các bạn biết. Khen những học sinh bạo dạn, khuyến khích động viên rụt rè, nhút nhát cùng chia sẻ sở thích, ước mơ. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau hơn. Đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện. Nơi mà Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân yêu trong gia đình các em.

       Ngoài ra, vào các giờ ra chơi, tôi cũng dành thời gian ngồi trò chuyện cùng các em. Đặc biệt, tôi luôn quan tâm đến những học sinh là con gia đình buôn bán, nông dân. Đây là những học sinh mà bố mẹ thường đi làm từ 4, 5 giờ sáng, không có thời gian quan tâm chăm sóc. Các em phải tự lập, nhiều khi đến lớp mà đầu tóc,

trang phục…chưa được ngay ngắn. Nhất là mùa đông, một số em còn mặc quần áo phong phanh, không đủ ấm. Tôi đã chia sẻ, động viên, chải tóc, …và nhắc nhở con phải biết mặc quần áo cho đủ ấm. Nhờ những cử chỉ yêu thương mà tình cảm cô trò ngày càng gắn bó. Đây là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể bạo dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó, áp đặt.

        Tóm lại, giáo viên như là người mẹ thứ hai của các em. Có như vậy mới tạo nên không khí vui tươi, cởi mở của học sinh. Từ đó, giúp cho việc giáo dục kĩ năng sống không chỉ hình thành qua môn Đạo đức mà tôi luôn uốn nắn giáo dục các em trong tất cả các giờ học, môn học, mọi lúc, mọi nơi. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao, giáo viên cần:

7.4.2. Thường xuyên chú ý rèn luyện các chuẩn mực đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

       Người giáo viên chủ nhiệm lớp 1 bao giờ cũng là “thần tượng” của học sinh nên tôi luôn thận trọng trong giao tiếp với đồng nghiệp từ cử chỉ, lời nói, việc làm, cách ăn mặc, đi đứng đều mẫu mực. Trong lớp tôi chú ý đến những cử chỉ và lời nói với học sinh. Tôi luôn tâm niệm mình phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

      Ở trên lớp, trong các tiết học Đạo đức, tôi thường xuyên cho học sinh thực hành các hành vi đạo đức theo chuẩn để hình thành thói quen cho các em.

      * Ví dụ: Bài Gia đình em.

     Ở bài này mặc dù một số chuẩn mực đạo đức các em chưa được học như: chào hỏi và tạm biệt, lịch sự trong bữa ăn, nói lời cảm ơn…Nhưng khi phân tích tranh 3

của bài tập 2 hoặc tranh 1, 2, 3, 4 của bài tập 3 tôi đã hình thành cho học sinh bằng các câu hỏi:

     - Trong bữa ăn, trước khi ăn con cần làm gì?

     - Đi học về, thấy mọi người trong nhà con cần làm gì?

     - Khi được mẹ cho quà, con cần có hành động và lời nói như thế nào?...

Từ đó, giáo viên xây dựng và hình thành cho học sinh các hành vi đạo đức:

     - Trước khi ăn phải mời. Mời ông bà, bố mẹ rồi đến anh chị em.

     - Đi học về nhà phải chào ông bà, bố mẹ.

     - Khi muốn di chơi phải xin phép ông bà, bố mẹ.

     - Khi nhận quà của mọi người phải đưa hai tay đón nhận và phải biết nói lời cảm ơn.

      Trong các tiết chủ nhiệm, tôi luôn tạo ra các tình huống có vấn đề (Các vấn đề đó cần phải sử dụng những hành vi đạo đức đúng mà các em đã được học) để các em cùng nhau giải quyết và chọn ra cách ứng xử phù hợp nhằm củng cố những kiến thức về chuẩn hành vi đạo đức mà các em đã học được thông qua bài học. Tuy nhiên, có những nội dung bài học như: gia đình em, lễ phép với thầy cô giáo, cảm ơn và xin lỗi … các em học ở tuần 7, 8, 19, 20, 26, 27 …nhưng ngay đầu năm tôi đã bước đầu xây dựng cho học sinh biết :

       + Kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô. Cụ thể: phải biết chào hỏi khi gặp mặt;  khi đưa hoặc nhận vật gì từ người lớn phải dùng hai tay…

       + Biết nói lời cảm ơn khi được ông bà, bố mẹ, thầy cô, bạn bè giúp đỡ.

       +  Biết nói lời xin lỗi khi mình mắc lỗi…

Thông qua các hành động cụ thể hàng ngày.

       * Ví dụ: Khi gặp các thầy cô giáo trong trường, các em đã biết đứng lại, khoanh tay lễ phép chào “Con chào cô ạ ! ”.

       Hay khi bạn cho mượn sách, bút, vở …các em đã biết nói “Tớ cảm ơn bạn!”

Từ đó, các em có biểu tượng ban đầu về các hành vi ứng xử lịch sự trong giao tiếp.

       Bên cạnh đó, tôi luôn chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống trong tất cả các môn học mà các em được học trong các tiết học trên lớp và ngoại khoá.

      * Ví dụ : Trong môn tự nhiên và xã hội.

       Bài “Hoạt động và nghỉ ngơi” giáo dục học sinh biết cách đi đứng, ngồi đúng tư thế …thể hiện được sự lịch sự trong giao tiếp.

       Chủ đề Gia đình giáo dục các em biết quan tâm, giúp đỡ, lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị em…

       * Hoặc trong môn Toán, Tiếng Việt tôi giáo dục các em phải có tính cẩn thận, kiên trì, yêu thích môn học, giữ gìn vệ sinh trường lớp …

       Ngoài ra, tôi còn phối kết hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức sinh hoạt sao hàng tuần cho học sinh. Trong buổi sinh hoạt này tôi đã chủ động cho học sinh: múa hát, đọc thơ, ca dao, tục ngữ ca ngợi về gia đình, trường lớp…thông qua đó giúp các em khắc sâu hơn những chuẩn mực đạo dức để tự hình thành cho mình những kĩ năng sống cơ bản thành người học sinh tốt, chăm ngoan, học giỏi.

7.4.3. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh cùng rèn kĩ năng sống.

       Thực tiễn cho thấy kết quả giáo dục đạo đức đang có sự giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay trong điều kiện của kinh tế thị trường cạnh tranh. Do bị xoáy vào vòng xoáy của cơ chế thị trường mà nhiều phụ huynh ít còn thời gian, sức lực dành cho việc kiểm tra, giáo dục con cái. Hoặc không ít phụ huynh nuông chiều con quá mức muốn gì được nấy…Bên cạnh đó, sự bùng nổ của công nghệ thông tin (cả tích cực và tiêu cực), cùng các trò chơi bạo lực trên internet…đã ảnh hưởng rất lớn đến học sinh. Mà tâm lí học sinh lớp 1 thích bắt chước các hành vi đạo đức qua tranh ảnh, sách báo…. nên chưa biết phân biệt để tự lựa chọn hành vi đạo đức cho mình. Do đó, những chuẩn mực hành vi  đạo đức sẽ mai một và mất đi, các kĩ năng xã hội, kĩ năng nhận thức…không còn.  Chính vì vậy, các em được trang bị kỹ năng sống càng sớm thì càng vững vàng và dễ hoàn thiện bản thân. Những em từ nhỏ không được trang bị các bài học thiết thực hoặc thường xuyên nghe cha mẹ cãi vã nhau, hoặc cha mẹ không có phương pháp giáo dục tối ưu… thì thường sai lệch trong suy nghĩ và lối sống. Đặc biệt trong môi trường xã hội hiện nay, có rất nhiều những hiện tượng tiêu cực tác động vào khiến nếu như không tự làm chủ được bản thân, các em dễ dàng hư hỏng.

       Do vậy, cần phải có sự kết hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Vì thế, trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đưa vấn đề giáo dục hành vi đạo đức hình thành kĩ năng sống cho các em để phụ huynh thấy được sự quan trọng của vấn đề này. Và yêu cầu phụ huynh cùng góp sức rèn luyện kĩ năng sống cơ bản cho các con :

    * Thứ nhất là kĩ năng nhận thức:

    - Cần rèn cho con tác phong làm việc độc lập, không ỷ nại.

    - Tự giác, trung thực trong lời nói và việc làm.

    * Thứ hai là kĩ năng xã hội, chú trọng rèn cho con kĩ năng giao tiếp bằng cách:

    - Luôn hướng dẫn và nhắc nhở con nói, trả lời cả câu.

    - Bước đầu biết: Nói lời cảm ơn, xin lỗi. Chào hỏi mọi người xung quanh.

    - Lễ phép với ông bà, cha mẹ…

     * Thứ ba là kĩ năng cảm xúc:

     - Bố mẹ cần nhẹ nhàng, gần gũi, động viên, chia sẻ với con trong học tập. Từ đó các con biết yêu thương, đồng cảm với mọi người xung quanh.

      Bên cạnh đó, tôi cũng mạnh dạn yêu cầu phụ huynh phải quan tâm sát sao đến các nhu cầu vật chất và tinh thần của con cái. Không nên nuông chiều, đáp ứng những nhu cầu không chính đáng của con em mình, cần biết giải thích cho con hiểu những đòi hỏi đó là không tốt. Giúp đỡ, động viên con học tập, xây dựng nề nếp, thói quen làm việc, vui chơi, giải trí có điều độ, không a dua các tật xấu. Uốn nắn, nhắc nhở, động viên con khi có những hành động việc làm không đúng…Phụ huynh lớp tôi rất đồng tình, ủng hộ vấn đề này. Tôi cũng thường xuyên theo dõi trao đổi với phụ huynh qua số liên lạc, qua điện thoại và phối kết hợp với phụ huynh cùng chung sức rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.

        Tóm lại, giáo viên rút ngắn được khoảng cách giữa cô và trò thì chắc chắn rằng các em sẽ gần gũi với chúng ta hơn. Nhờ đó các em sẽ bạo dạn, tự tin  và trưởng thành hơn. Với môi trường tốt sẽ ươm được những chồi non khỏe mạnh có sức đề kháng chống lại sự xâm nhập của cái xấu từ bên ngoài. Bên cạnh những yếu tố khách quan thì mỗi giờ Đạo đức để lồng ghép kĩ năng sống cho các em, tôi còn:

7.5. Giáo dục kĩ năng sống thông qua việc sử dụng các phương pháp dạy học đạo đức

    Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường Tiểu học được thực hiện trong các môn học nói chung và môn Đạo đức nói riêng, được tổ chức thông qua các hoạt động giáo dục nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp thêm kĩ năng sống vào các môn học mà theo một cách mới, đó là sử dụng các phương pháp, các kĩ thuật dạy học tích cực nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập.

      Theo tôi, trong môn Đạo đức có hai cách tiếp cận giáo dục kĩ năng sống:

     - Thứ  nhất, các hoạt động tập trung vào kĩ năng sống cốt lõi như: Kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao tiếp…Theo cách này, bằng hoạt động chủ đề về kĩ năng cụ thể, người học sẽ hiểu kĩ năng sống đó là gì, cách hình thành kĩ năng sống đó và vận dụng nó để giải quyết các tình huống giả định.

    - Thứ hai, mỗi kĩ năng gắn với một vấn đề trong cuộc sống, để giải quyết nó thì cần phải vận dụng những kĩ năng sống khác nhau. Qua đó, hình thành những kĩ năng sống ấy. Trong trường hợp này các kĩ năng sống được gắn với các vấn đề cụ thể.

      Chính vì vậy, tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu kĩ năng cần xây dựng của bài Đạo đức mà tôi lựa chọn những cách tiếp cận khác nhau.

      Để tăng cường sự trải nghiệm và để đưa ra cách giải quyết theo kinh nghiệm và hiểu biết ở học sinh thì các hoạt động lên lớp được thực hiện trong mối quan hệ cộng đồng, trong đó mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm có một vai trò hết sức quan trọng. Thông thường để phát triển kĩ năng này, tôi sử dụng phương pháp nhóm.

7.5.1. Phương pháp nhóm.

       Đây là phương pháp giúp mọi người cùng tham gia trao đổi hay cùng làm một việc nào đó theo nhóm nhỏ. Thảo luận theo nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi người tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết vấn đề. Nhờ đó:

     - Ý kiến của học sinh làm giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan, khoa học.

    - Hiểu biết trở nên sâu sắc, bền vững nhờ được giao lưu trong nhóm.

    - Nhờ không khí làm việc cởi mở nên học sinh trở nên thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và có kĩ năng lắng nghe ý kiến của bạn.

    - Làm việc trong nhóm, các thành viên đều phải tham gia thực hiện với tinh thần trách nhiệm theo tinh thần hợp tác.

    - Khi phân tích tình huống, mỗi cá nhân lại phải sử dụng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo để lựa chọn và ra quyết định chung của nhóm.

       Tóm lại, hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò và ý thức trách nhiệm, tính tích cực trên cơ sở làm việc hợp tác. Ngay từ khi lên kế hoạch giảng dạy, giáo viên đã phải lựa chọn hình thức nhóm nào cho phù hợp. Để cho việc lựa chọn hình thức nhóm thuận tiện, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành: 

7.5.1.1. Khảo sát, phân loại học sinh.

      Thông qua các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể , vui chơi và qua điều tra về hoàn cảnh học sinh tôi đã phân loại học sinh về tính cách và kĩ năng sống. Cụ thể tôi chia lớp thành 3 nhóm như sau:

       + Nhóm A: Gồm những em nhanh nhẹn, thông minh, có kĩ năng giao tiếp, tư duy ...: 12 em.

       + Nhóm B: Gồm những em chăm chỉ, thiếu sự nhạnh nhẹn, bước đầu có kĩ năng giao tiếp, biết tự phục vụ …: 10 em .

       + Nhóm C: Gồm các em chậm chạp, nhút nhát: 8 em.

        Tuỳ từng phần, từng nội dung bài học mà tôi lựa chọn số học sinh trong một nhóm và cách thức chia nhóm khác nhau. Lớp 1A do tôi chủ nhiệm có 30 học sinh được tôi chia thành 4 tổ. Các tổ lại chia thành các nhóm nhỏ như: nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn… Đây là cách chia nhóm cố định theo vị trí chỗ ngỗi, trong mỗi nhóm có đủ 3 nhóm (A, B, C). Cách chia này tạo sự hợp tác, phát huy kĩ năng sống, sở trường và khắc phục điểm yếu của mỗi cá nhân. Trong mỗi tiết học, với những câu hỏi khó đòi hỏi học sinh phải tư duy ở mức độ cao hơn bình thường. Đây là cơ hội dành cho đối tượng học sinh ở nhóm A. Khi đó, các em ở nhóm A sẽ tập trung lại để thảo luận, tìm ra đáp án trả lời rồi trở về nhóm cố định để trao đổi lại cho các bạn trong nhóm mình. Các em học sinh ở nhóm A tôi đặt tên là “Nhóm thông thái”. Việc sử dụng “Nhóm thông thái” sẽ giúp các em phát huy sở trường của mình, tự tin trong giao tiếp, giúp giáo viên truyền thụ kiến thức tới học sinh nhẹ nhàng, tự nhiên.  Ngoài ra, tuỳ từng bài, tuỳ từng nội dung trong mỗi phần mà tôi còn sử dụng các hình thức nhóm khác như: Nhóm ngẫu nhiên, nhóm tình bạn, nhóm cùng sở thích, …

7.5.1.2. Linh hoạt sử dụng các hình thức nhóm khác nhau.

       Hoạt động nhóm có tác dụng hay không phụ thuộc vào cách tổ chức hoạt động nhóm  hiệu quả. Tính hiệu quả của hoạt động nhóm trong dạy học là thước đo chất

lượng của hình thức dạy học theo nhóm. Căn cứ vào mục tiêu, tính chất và kĩ năng

cần đạt của từng bài dạy mà giáo viên lựa chọn các hình thức nhóm sao cho phù hợp.

    * Ví dụ: Khi dạy bài "Em là học sinh lớp Một”(Tiết 1)

    -  Ở hoạt động 1: “Vòng tròn giới thiệu tên” (Bài tập 1)

       + Bước 1: Học sinh quan sát tranh và thảo luận nhóm 4 để nêu yêu cầu của bài tập (những HS ở nhóm A là nhóm trưởng)

      + Bước 2: Đại diện các nhóm lên trình bày kết quả làm việc của nhóm mình.

      Sau khi các nhóm báo cáo kết quả thảo luận nhóm 4, giáo viên cho 3 nhóm trưởng đứng lên tự giới thiệu về tên của mình. Sau đó giáo viên động viên và khích

lệ học sinh ở nhóm C đứng xen vào cùng các bạn nhóm A và giới thiệu. Cuối cùng, giáo viên hỏi học sinh nhóm C:

    - Có bạn nào cùng tên với con không ?

    - Con hãy chỉ và nêu tên bạn đứng bên tay phải (trái) của mình ?

      Với những câu hỏi đơn giản, các em ở nhóm C trả lời rất nhanh, chính xác. Từ đó, giáo viên kết luận: Mỗi người đều có một cái tên. Trẻ em cũng có quyền có họ tên.

       Các câu hỏi từ dễ đến khó giúp học sinh phát hiện và hình thành kiến thức nhẹ nhàng. Sau bài học giới thiệu bản thân là những bài học khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt là kĩ năng hợp tác. Tôi luôn tạo không khí thân thiện tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự tin khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.

    *Ví dụ: Khi dạy bài " Đi bộ đúng quy định ”( tiết 2 )

     Sau khi học sinh được tìm hiểu bài tập 4 và rút ra kết luận :

     - Tranh 1, 2, 3, 4, 6: đi bộ đúng quy định.

     - Tranh 5, 7, 8 : đi bộ sai quy định.

  Lúc này học sinh ở “Nhóm thông thái” sẽ tập trung lại và thảo luận :

     - Các bạn trong tranh 5, 7, 8 sai ở điểm  nào ?

     - Theo con việc gì sẽ xảy ra với các bạn ?

      Sau khi tìm ra đáp án trả lời rồi “Nhóm thông thái” trở lại trao đổi lại cho các bạn trong nhóm cố định của mình. Các nhóm sẽ nêu ý kiến trước lớp, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Cuối cùng giáo viên chốt lại: Các bạn đá bóng, đi bộ dưới lòng đường… là sai quy định về an toàn giao thông, có thể gây tai nạn giao thông, nguy hiểm đến tính mạng của bản thân và người khác…Từ đó học sinh có kĩ năng đi bộ an toàn. Và biết phê phán, đánh giá những hành vi đi bộ không đúng quy định trên thực tế.

       Như vậy, với việc sử dụng “Nhóm thông thái” sẽ giúp các em học khá - giỏi phát huy sở trường của mình, tự tin trong giao tiếp. 

       Tóm lại: Thảo luận nhóm là bước học cách giải quyết vấn đề, học kĩ năng sống để giải quyết vấn đề trong tình huống đặt ra.

      Sau khi cùng học sinh tìm ra mẫu của hành vi trong tình huống bài học chứa đựng kĩ năng sống cần dạy, giáo viên cần tiếp tục đặt học sinh vào tình huống phải vận dụng

kĩ năng sống vừa học để thực hành chúng. Trong bước này phương pháp đóng vai thường được sử dụng.

7.5.2. Phương pháp đóng vai

    Theo tôi, đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “Làm thử“ một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống ở vở bài tập Đạo đức hoặc trong cuộc sống …Đây là phương pháp dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ  sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào sự quan sát. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn.

     Phương pháp đóng vai, giúp các em rèn luyện các kĩ năng sau:

      - Rèn luyện thực hành kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ .

      - Gây hứng thư và chú ý cho học sinh.

      - Phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo của học sinh.

      - Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi theo hướng tích cực.

   * Ví dụ : Bài “Lễ phép, vâng lời thầy giáo cô giáo” ( Tiết 1)

    Ở hoạt động 1: Đóng vai ( Bài tập 1 )

    Đây là hoạt động xây dựng mẫu hành vi, tôi tiến hành như sau:

   + Bước 1: Giáo viên chia nhóm 4 và giao việc cho các nhóm tổ có nhiệm vụ đóng vai thể hiện cách ứng xử của nhóm mình trong các tình huống :

      Tổ 1, tổ 2 thể hiện tình huống : Em gặp thầy cô giáo trong trường.

      Tổ 3, tổ 4 thể hiện tình huống : Em đưa sách vở cho cô giáo.

   +  Bước 2: Các nhóm thảo luận

   + Bước 3: 2 – 3 nhóm lên thể hiện.

   + Bước 4: Thảo luận cả lớp với các câu hỏi :

    - Khi gặp thầy cô giáo, các bạn đã làm gì ?

    - Khi đưa sách vở cho cô giáo bạn có hành động như thế nào ?

     Dựa vào phần đóng vai của các bạn, những học sinh ở nhóm A, B nối tiếp nêu câu trả lời. Từ đó, giáo viên xây dựng mẫu hành vi qua câu hỏi :

    - Cần làm gì khi gặp thầy cô giáo?

    - Cần làm gì khi đưa  hoặc nhận sách vở từ tay thầy cô giáo?

     Giáo viên kết luận và yêu cầu nhóm C nhắc lại.

     Đóng vai để xây dựng chuẩn hành vi đạo đức đòi hỏi người giáo viên phải biết kết hợp các nhóm A, B, C làm việc hiệu quả để thể hiện chuẩn đạo đức. Bên cạnh đó, giáo viên phái đưa ra các câu hỏi thảo luận, phân tích kĩ hành động, cử chỉ, lời nói của các diến viên. Từ đó phát huy được vốn kĩ năng sáng tạo, kĩ năng giao tiếp sẵn có của học sinh.

    * Ví dụ: bài “Em và các bạn” ( tiết 2)

    Hoạt động 2: Đóng vai ( Bài tập 2)

   Sau khi học sinh thảo luận các tình huống ở tranh 1, 2, 3, 4, 5, 6 và rút nhận xét:

  - Các tranh nên làm: 1, 3, 5, 6.

  - Các tranh không nên làm : 2, 4.

Để khắc sâu, củng cố kĩ năng giao tiếp ứng xử với bạn bè và hình thành kĩ năng cảm xúc cho các em, tôi tiến hành như sau :

   + Bước 1: Yêu cầu học sinh quan sát tranh 1, 3, 5, 6.

   + Bước 2: Thảo luận nhóm 4, đóng vai thể hiện lại các tình huống này

                  - Tổ 1: đóng vai tranh 1

                  - Tổ 2: đóng vai tranh 3

                  - Tổ 3: đóng vai tranh 5

                  - Tổ 4: đóng vai tranh 6

   + Bước 3: Các nhóm tập đóng vai, giáo viên quan sát giúp đỡ HS.

   + Bước 4: Các nhóm lên thể hiện.

   + Bước 5: Giáo viên đưa câu hỏi hình thành kĩ năng cảm xúc:

                  - Con cảm thấy như thế nào khi được bạn cư xử tốt ?

                  - Con cảm thấy thế nào khi con cư xử tốt với bạn ?

     Từ cảm xúc được trải nghiệm các em sẽ cảm thấy rất vui khi bạn cư xử tốt với mình. Qua đó, các em sẽ có sự đồng cảm và hiểu được niềm vui của bạn khi mình đối xử tốt với bạn. Và chắc chắn những cử chỉ đẹp, những lời nói hay sẽ thường xuyên được xây dựng trong cuộc sống hàng ngày. Đơn giản đó chính là những kĩ năng sống mà các em đang hình thành.

   * Hoặc đóng vai để xử lí tính huống qua bài “Chào hỏi và tạm biệt” ( tiết 2 )

    Trên cơ sở chuẩn hành vi đã tìm hiểu ở tiết 1. Ở hoạt động 1 (Tiết 2), giáo viên đưa ra tình huống như sau:

    Tan học, em và Lan cùng đi về. Ra cổng, em thấy mẹ Lan đang chờ bạn ở cổng. Nhìn thấy bác, em sẽ làm gì ? 

    + Bước 1: Giáo viên nêu tình huống và giao việc cho nhóm 4 đóng vai xử lí tính huống.

    + Bước 2: Các nhóm thảo luận.

    + Bước 3: 2 – 3 nhóm lên thể hiện.

    + Bước 4: Thảo luận cả lớp câu hỏi

       - Con đồng tình với các xử lí tình huống của nhóm nào ? Vì sao ?                 

       Học sinh sẽ vận dụng kiến thức đã học để so sánh, đối chiếu cách xử lí của nhóm bạn. Và các em sẽ đưa được câu trả lời: Em cần lễ phép chào bác. Từ đó hình thành kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng ứng xử…

       Tóm lại, phương pháp đóng vai phát huy tối đa tư duy phê phán và tư duy sáng tạo. Mỗi cá nhân thường thích chấp nhận những hành vi mới nếu các em được lựa chọn nó trong số những phương án trên cơ sở tự phân tích, phê phán và tìm ra phương án phù hợp với mình khi giải quyết vấn đề.

7.5.3. Phương pháp trò chơi.

         Cùng với học, chơi là một nhu cầu không thể thiếu được của học sinh tiểu học. Phương pháp trò chơi là tổ chức cho học sinh một trò chơi nào đó để thông qua đó mà tìm hiểu một vấn đề, biểu hiện thái độ hay thực hiện hành động, việc làm.Qua đó, các em không những được phát triển trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà con được hình thành nhiều phẩm chất, kĩ năng và hành vi đạo đức. Cụ thể:

         - Qua trò chơi, các em có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi, bởi con người thể hiện như thế nào trong trò chơi  thì phần lớn nó thể hiện như thế trong cuộc sống thực. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành ở các em niểm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.

        - Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ửng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.

        - Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.

        - Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự

 

nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải tỏa được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.

        - Trò chơi giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh.

Hiểu được điều này, tôi thường tổ chức các trò chơi học tập có luật chơi đơn giản, cách chơi nhẹ nhàng để học sinh nào cũng có thể được chơi. Trò chơi để giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh lớp 1 phong phú, đa dạng. Có thể là: chơi đố vui, chơi tìm đôi, chơi “Nếu … thì”, tặng hoa …Có trò chơi được tổ chức thay thế một

hoạt động tìm hiểu kiến thức nào đó. Có những trò chơi được tổ chức ở cuối tiết để củng cố bài. Các trò chơi tổ chức cuối tiết học thường là những trò chơi có tính chất củng cố, khắc sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tạo tâm lí thư giãn sau khi tham gia các hoạt động học tập căng thẳng. Qua đó việc lồng ghép kĩ năng sống trở nên tự nhiên hơn.

      Khi tổ chức trò chơi học tập cần chú ý theo các bước sau:

- Giới thiệu tên trò chơi, phổ biến cách chơi, thời gian chơi và luật chơi.

- Cho học sinh chơi thử (nếu cần)

       - Chơi thật.

       - Nhận xét kết quả trò chơi (có thể có thưởng)

     - Kết thúc: Rút ra bài học hoặc giáo viên tổng kết những kiến thức cần nắm được qua trò chơi.

       Như vậy, khi tham gia vào trò chơi học tập, học sinh được luyện tập những hành vi đạo đức một cách nhẹ nhàng và có kĩ năng giải quyết một cách tự nhiên. Đồng thời giải tỏa được căng thẳng, mệt mỏi.

    Khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh, người giáo viên đã thực sự mang lại niềm vui, gây hứng thú học tập cho các em mà vẫn đạt được mục tiêu của bài dạy. Trò chơi học tập không chỉ giúp cho học sinh có trạng thái tâm lí tốt mà còn hàm chứa một thông điệp về nội dung, kĩ năng cần đạt của bài học. Do đó khi tổ chức trò chơi cho học sinh, giáo viên cần tế nhị, khéo léo, không nên quá thiên về phân định thắng thua.

7.5.4. Các phương pháp khác.

       Thay đổi hành vi luôn là việc khó. Nếu chỉ dừng lại ở việc học và thực hành kĩ năng sống trong các tình huống giả định được đặt ra trong khi học thì chưa thể đảm bảo học sinh sẽ có hành vi tích cực bền vững. Do đó, quá trình học kĩ năng sống còn tiếp nối trong quá trình vận dụng các kĩ năng sống, duy trì những hành vi

lành mạnh, tránh tái phạm thói quen cũ. Chính vì vậy, song song với các phương pháp trên, tôi còn đồng hành sử dụng các phương pháp: phương pháp nêu gương, phương pháp động viên, phương pháp liên hệ. Trong đó, tôi đặc biệt chú trọng phương pháp nêu gương. Thông qua các phương pháp này, học sinh biết tự xem xét. Đối chiếu các hành vi chuẩn mực đạo đức đã học với bản thân mình và các bạn trong lớp xem bản thân học sinh đã thực hiện được các hành vi đạo đức đúng đắn chưa, nếu chưa thực hiện được các em biết tự mình sửa chữa để ứng xử trong cuộc sống.

      Các phương pháp này thường được sử dựng sau khi xây dựng chuẩn mẫu hành vi cần đạt được của mục tiêu bài học. Hoặc sử dụng trong phần củng cố cuối tiết học.

     * Ví dụ : Bài “Cảm ơn và xin lỗi ”( tiết 1)

      Sau khi xây dựng mẫu hành vi ở hoạt động 1, 2 tôi cho học sinh tự liên hệ:

      - Con đã từng nói lời cảm ơn (xin lỗi) chưa ? Trong tình huống nào?

      Học sinh nối tiếp nêu, giáo viên kết hợp nhận xét, khen những học sinh biết nói lời cảm ơn (xin lỗi).

       Đồng thời để phát triển kĩ năng cảm xúc của các con, tôi còn cho học sinh liên hệ :

        - Con đã làm được việc gì để được người khác nói lời cảm ơn (xin lỗi)?

        - Khi nhận được lời cảm ơn (xin lỗi) con cảm thấy như thế nào?

      Từ đó các em có ý thức về lời nói, việc làm, niềm vui khi nhận được các lời cảm ơn, xin lỗi. Đặc biệt có trách nhiệm với lời nói, việc làm của bản thân.

       * Ví dụ: Bài “Bảo vệ hoa và cây nơi cộng cộng”

      Giáo viên nêu gương các bạn Linh, Thảo, Điệp, Ánh …được nhắc nhiều trong bảng “Người tốt, việc tốt”, có ý thức trong các giờ ra chơi hoặc cuối mỗi buổi học đều dành thời gian tỉa lá, nhặt giấy rác, tưới nước …cho công trinh măng non của lớp. Đấy chính là hành động thể hiện việc bảo vệ cây nơi công cộng.

     * Hoặc: Bài “Đi học đều và đúng giờ” ( tiết 2)

     Ở cuối tiết học tôi cho học sinh xem đoạn Phóng sự của Đài truyền hình Việt Nam về những học sinh đồng bào Mông ở Ngải Thầu – Lào Cai phải đi bộ 9 km đến trường trong thời tiết giá rét. Nhìn hình ảnh các bạn quần áo phong phanh, đi đôi dép rách đến trường trong tiết trời mù sương, tôi thấy một số học sinh lớp tôi rơm rớm nước mắt. Từ đó, các em có ý thức hơn, hiểu và biết được mình có điều kiện hơn các bạn vùng cao như thế nào. Nhờ đó các con có động lực trong học tập, có ý thức học và làm việc đúng giờ. Ngoài ra, các con có nghị lực vươn lên trong cuộc sống.

      Tấm gương là những người bạn, người anh, người chị trong lớp trong trường rất gần gũi chính là động lực giúp các em học tập và noi theo.

      Tóm lại, hành vi, kĩ năng là kết quả quan trọng nhất của việc dạy học môn Đạo đức. Để đạt được kết quả này giáo viên cần phải có nghệ thuật phối hợp, vận dụng

linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp phát huy được tối đa tư duy, nhận thức của học sinh. Từ đó, hình thành và phát triển các kĩ năng sống cơ bản cho học sinh lớp 1.

8. Những thông tin cần được bảo mật: Không

9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

Biết xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc, nội dung giáo dục kĩ năng sống trong môn Đạo đứ clớp 1

Nghiên cứu kĩ nội dung ch­­ương trình đồng thời khảo sát, phân loại học sinh tạo điều kiện cho việc tổ chức hoạt động học tập

Giáo viên phải luôn gần gũi, yêu thương học sinh, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Thường xuyên chú ý rèn luyện các chuẩn mực đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

Phối kết hợp với phụ huynh rèn kĩ năng sống cho học sinh.

Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp phát huy được năng lực sáng tạo và vốn sống của học sinh. Từ đó, xây dựng và hình thành các kĩ năng sống cơ bản cho các em.

10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến

10.1. Kết quả thu được.

      Sau khi áp dụng các biện pháp như trên vào dạy kĩ năng sống qua môn Đạo đức lớp 1, tôi đã thu được kết quả rất khả quan như sau:

 

 

 

Đầu năm

Giữa học kì I

Không khí

lớp học

- Không khí lớp trầm, HS chưa hào hứng, giờ học đơn điệu.

- Không khí lớp sôi nổi, hào hứng

 - Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên.

Khoảng cách

giữa thầy và trò

- Trong lớp học có sự cách biệt giữa thầy và trò. Học sinh thường sợ giáo viên.

 

- Học sinh ít được quan tâm giáo dục kĩ năng sống.

 

- Giáo viên và học sinh gần gũi, cởi mở và chân tình. Học sinh  tôn trọng, ngưỡng mộ cô giáo và dám tâm sự, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình.

- Học sinh được quan tâm giáo dục kĩ năng sống.

 

- Các kĩ năng sống cơ bản được

Kĩ năng sống

 

- Còn bỡ ngỡ, lúng túng trong giao tiếp và trước các tình huống xảy ra trong cuộc sống.

phát huy như:

+ Kĩ năng tự nhận thức: 90% HS bạo dạn, tự tin

+ Kĩ năng giao tiếp:100%HS giao tiếp văn minh, lịch sự.

+ Kĩ năng tư duy, sáng tạo: xử lí thông tin, phân tích – đối chiếu.

+ Kĩ năng ra quyết định: giải quyết vấn đề bằng ý kiến của mình.

+ Kĩ năng làm chủ bản thân: biết chia sẻ, đồng cảm với mọi người.

      Nhờ đó, góp phần nâng cao chất lượng giờ học môn Đạo đức, cuối học kì 1 lớp tôi được đánh giá như sau:

Xếp loại cuối học kì I

Số học sinh

Tỉ lệ

Đạt

30

100%

    Việc thực hiện các biện pháp trên , tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng. Thể hiện qua việc sinh hoạt ở lớp cũng như ở nhà, trong việc giao tiếp bằng lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào cuộc sống. Những lời chào, cảm ơn, xin lỗi … đã trở thành thói quen. Trong các tiết học Đạo đức các em nhóm B, C đã bạo dạn tham gia trò chơi … Các em yêu thích môn học , phát biểu bài to, rõ ràng.

      Kinh nghiệm này đã đ­ược tôi phổ biến đến các đồng chí trong tổ chuyên môn. Các đồng chí đã thực hiện và khẳng định có hiệu quả.

10.2. Bài học kinh nghiệm.

      Việc áp dụng các biện pháp trên để rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Đạo đức ở lớp 1 có một ý nghĩa rất quan trọng đối với bản thân tôi. Tôi nhận thấy các em đã tự tin, mạnh dạn và đặc biệt có kĩ năng xã hội, kĩ năng nhận thức rất tốt. Từ đó mà tinh thần học tập các môn học khác của học sinh trong lớp tôi đã phấn chấn hẳn lên. Đây là tiền đề giúp học sinh tiếp thu bài có hiệu quả.

      Các tiết Đạo đức đã thực sự trở thành những giờ học thú vị đối với học sinh lớp  tôi. Các em chăm học, ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, ham thích đến trường hơn. Điều này khiến các bậc phụ huynh rất hài lòng và phấn khởi, uy tín của giáo viên trư­­ớc phụ huynh đ­­ược củng cố và nâng lên rõ rệt.

      Một điều quan trọng hơn mà tôi nhận thấy là các tiết Đạo đức đã xây dựng cho học sinh tình cảm về một ngôi nhà thứ hai của mình. Tại đây các em đư­­ợc chăm sóc, giáo dục, bồi dưỡng  để trở thành những  những người có tài, có đức như Bác Hồ kính yêu đã từng mong mỏi.

11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu.

Số

TT

Tên tổ chức, cá nhân

Địa chỉ

Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

1

 

Trường Tiểu học….

 Tam Dương – Vĩnh Phúc

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 thông qua môn Đạo Đức

 

                                                                                       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tác giả: Đỗ Tị Tuyết Nhung

Xem thêm

Mái trường em học bao điều hay
NHẠC NHẢY VUI NHỘN
Ngày hội đến trường
Nhạc không lời
Múa dân vũ