tin tức-sự kiện
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người toàn diện để đáp ứng yêu cầu chung của đất nước - công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong đó, ngoại ngữ - Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ có vai trò như một phương tiện tích cực hỗ trợ hiệu quả nhất cho quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước nhà. Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn Tiếng Anh nói riêng là một trong những mối quan tâm hàng đầu của sự nghiệp giáo dục hiện nay. Và điều đó được đặc biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học sinh ở bậc tiểu học - người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ.
Để thực hiện mục tiêu này cần có hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục, nhất là đội ngũ các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh góp sức.
Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó, học vẹt, không biết tự học khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này ? Làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn thấp, chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh ở vùng nông thôn chỉ quen cách học cũ ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở rộng bổ sung, nâng cao kiến thức. Đồng thời vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của mình. Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học là môn học mới và chưa được coi là môn chính, thế nên bản thân học sinh và ngay cả phụ huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng Việt....
Tuy Tiếng Anh ở bậc tiểu học chưa được xem là môn học chính. Song, nó có tính chất khởi đầu quan trọng trong các năm học tiếp theo ở cấp II. Vì thế nó giữ một vai trò không nhỏ trong quá trình học tập của các em. Nó trang bị cho các em vốn từ vựng, ngữ pháp và những mẫu câu tối thiểu, cơ bản, đơn giản nhất xoay quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm gia đình, và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Chính vì thế việc lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động tự chọn nhằm gây hứng thú và củng cố kiến thức cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng thường xuyên. Bởi điều này ảnh hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học sinh, một yếu tố tác động cơ bản đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có động cơ trẻ sẽ không học. Và việc củng cố kiến thức còn làm khắc sâu hơn những ngữ liệu đã học trong các tiết học một cách có hệ thống, làm nền tảng vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự tin hơn trong quá trình học tập sau này.
Để chất lượng môn học của các em đạt kết quả tốt nhất thì không phải là một chuyện dễ dàng. Vậy làm thế nào để các em hình thành và phát triển kỹ năng học tập toàn diện nhất? Làm thế nào để các em yêu mến, khắc sâu vốn kiến thức văn hóa nước ngoài? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững mà không nhàm chán, phải thật sự lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái trong giờ học, gây hứng thú cho học sinh khi tiếp thu văn hoá nước ngoài.
Nhìn chung với tinh thần và yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới phương pháp dạy học qua quá trình đổi mới thay sách giáo khoa những năm gần đây, phần lớn giáo viên đã tìm tòi học hỏi và vận dụng phong phú các phương pháp vào quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh.Song còn ảnh hưởng của phương pháp cũ một phần, mặt khác là chưa quen và đang trên đà đổi mới dần nên còn không ít những giáo viên chưa thành công trong việc thể hiện vai trò tổ chức, hướng dẫn của mình, chưa phát huy được vai trò chủ động sáng tạo, tích cực hoạt động của học sinh.
Để truyền thụ kiến thức cho học sinh có hiệu quả, gây được hứng thú học tập của học sinh, học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu kiến thức và vận dụng tốt kiến thức, tất cả đều phụ thuộc vào phương pháp dạy của người thầy. Qua thực tế với những vấn đề trên, để tổ chức các phương pháp dạy tư vụng hiệu quả trong việc dạy học ngoại ngữ nói chung và dạy học Tiếng Anh nói riêng cần phải tuân thủ những nguyên tắc gì và yêu cầu giáo viên, học sinh phải làm gì?. Ở chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra suy nghĩ của mình về “Phương pháp dạy từ vựng môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 4”
2. Tên sáng kiến: “Phương pháp dạy từ vụng môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 4”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên:
- Địa chỉ công tác:
- Điện thoại:
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Sáng kiến có thể áp dụng vào giảng dạy tư vựng của môn Tiếng Anh ở lớp 4 nói riêng và môn Tiếng Anh ở trường tiểu học nói riêng.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn.
+ Tìm hiểu thực trạng dạy và học của học sinh lớp 4.
+ Đề xuất những phương pháp nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 4 và học sinh học tiếng Anh trong nhà trường nói chung.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Sáng kiến bắt đầu được áp dụng thử ngày 04 tháng 9 năm 2015
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Về nội dung của sáng kiến:
Trước đây trong trường tiểu học, Tiếng Anh là môn tự chọn nên thường được coi là môn phụ. Hơn nữa sách giáo khoa cũ đuợc biên sọan ít hoặc gần như không có nhiều tranh ảnh.Tuy nhiên một vài năm trở lại đây, chương trình được cải cách, tôi nhận thấy rằng các hoạt động , tranh ảnh trong mỗi bài có vai trò lớn trong việc thúc đẩy học sinh năng động, sáng tạo hơn trong học tập từ vựng. Phương pháp tổ chức các hoạt động này cũng yêu cầu giáo viên phải năng động, sáng tạo trong cách tổ chức làm sao để cuốn hút các em tích cực chủ động tham gia nhằm chiến lĩnh kiến thức ngôn ngữ một cách hiệu quả nhất.
Những năm trước đây khi tổ chức các hoạt độngdạy từ vựng, tôi thường chỉ tổ chức một cách sơ sài cho học sinh với mục đích dịch từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt . Nhưng dần dần tôi hiểu ra rằng các phương pháp dạy nếu đuợc tổ chức hợp lí, sáng tạo sẽ là một trong những phuơng pháp giúp học sinh học tập tích cực và đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi và mạnh dạn thay đổi phương pháp giảng dạy môn Tiếng Anh nói chung và phương pháp tổ chức dạy từ vựng nói riêng để tổ chức cho học sinh học tập một cách nhẹ nhàng, đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra; mang lại hiệu quả hữu hiệu.
Để có thể áp dụng các phương pháp mới cho việc dạy và học từ vụng cho học sinh tiểu học trước tiên tôi tiến hành các bước sau:
7.1.1. Tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh khối lớp 4 với việc học môn Tiếng Anh:
Lớp |
Sĩ số |
Trước khi thực hiện đề tài |
|||
Thích |
% |
Không thích |
% |
||
4A |
27 |
13 |
48 |
14 |
51 |
4B |
28 |
15 |
53 |
13 |
46 |
4C |
28 |
19 |
67 |
9 |
32 |
Qua kết quả khảo sát trên, tôi nhận thấy tỉ lệ các em học sinh không thích học môn Tiếng Anh chiếm khá cao (chiếm gần một nửa số học sinh mỗi lớp). Tâm lí sợ học kĩ năng khó và cơ sở vật chất thiếu thốn cũng làm cho các em phần nào mất đi hứng thú với môn học.
7.1.2: Tìm hiểu kết quả học tập của học sinh khối 4:
Trước khi áp dụng biện pháp tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học tập kĩ năng nghe của học sinh khối 4 đầu năm học 2014 - 2015 với kết quả thu được cụ thể như sau:
Lớp |
Sĩ số |
Trước khi thực hiện đề tài |
|||
Hoàn thành |
% |
Chưa hoàn thành |
% |
||
4A |
27 |
20 |
74,5 |
7 |
25 |
4B |
28 |
18 |
64,5 |
10 |
35 |
4C |
28 |
25 |
89 |
3 |
11,5 |
Từ kết quả tìm hiểu hứng thú và kết quả học tập môn Tiếng Anh của học sinh khối 4 tôi thấy rằng hầu hết các em chưa có hứng thú học. Do vậy kết quả học tập của học sinh chưa cao, và chưa thực sự bền vững. Đồng thời từ sự tìm hiểu thực trạng cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên của nhà trường, tôi đã mạnh dạn áp dụng các biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng môn Tiếng Anh nói chung.
7.1.3. Áp dụng các biện pháp:
7.1.3.1. Trước tiên tôi luôn nhắc nhở để các em hiểu rõ mỗi phương pháp học từ vựng là một cách tốt để các em ghi nhớ ngữ liệu và luôn có mối quan hệ mật thiết với các kĩ năng nói, đọc, viết.
Các phương pháp dạy từ vựng là một trong những tài liệu cho việc dạy tiếng Anh hiệu quả vì chúng góp phần vào việc giúp học sinh tăng cường khả năng ghi nhớ rất nhanh và có hiệu quả lâu dài. Các bài hát sẽ giúp thu hút sự chú ý của trẻ nhiều hơn đến các hình thức, dạng, mẫu và cấu trúc câu. Điều quan trọng cần phải chú ý trong quá trình dạy tiếng Anh cho trẻ em, đó là thu hút sự chú ý nghiêm túc của trẻ.
Ví dụ khi học sinh được luyện tập ngữ liệu mới thông qua các bài hát, thơ âm điệu của bài hát sẽ giúp trẻ chú ý cao đến hình thứctừ vựng, sự chú ý này làm cho trẻ nhanh nhớ những gì giáo viên muốn truyền đạt. Bên cạnh đó, việc lặp đi lặp lại của các giai điệu làm cho ngôn ngữ được dễ nhớ hơn.
Một nhân tố nữa đóng góp vào sự thành công của phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh là sự giảm căng thẳng mà các hoạt động mang lại cho trẻ trong quá trình học.
Với các phương pháp dạy từ vựng chúng ta dễ dàng thay đổi chủ đề và tạo ra các ngữ cảnh sinh động và điều này có vai trò tích cực trong việc học ngữ pháp của trẻ. Nếu trong một hoạt động dạy từ vựng có chứa đựng nội dung phù hợp với lứa tuổi thì việc học các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết có thể được lồng ghép vào một bài học rất nhẹ nhàng.
7.1.3.2. Phương pháp dạy từ vụng cho học sinh lớp 4:
1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chống.
e.g. a car e.g. a flower
![]() |
|||
![]() |
|||
2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ.
e.g. bored Teacher looks at watch, makes bored face, yawns T. asks, “How do l feel” |
e.g. (to) jump T. jumps T. asks, “What am l doing?” |
3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được.
e.g. limes (count), rice (uncount.) T. brings real limes and rice into the class. T. asks, “What’s this?” |
e.g. open (adj.), closed (adj.) T. opens and closes the door T. says, “Tell me about the door: it’s..........what?” |
4. Situation / explanation:
e.g. honest T. explains, “I don’t tell lies. I don’t cheat in the exams. I tell the truth.” T. asks, “What am I? Tell me the word in Vietnamese.” |
5. Example
e.g. fumiture T. lists examples of fumiture: “tables, chairs, beds – these are all ... fumiture ... Give me another example of... fumiture...” |
e.g. (to) complain T. saya, “This room is too noisy and too small. It’s no good (etc.)” T. asks, “What am I doing?” |
6. Synonyon antonyon (đồng nghĩa trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
e.g. intelligent T. asks, “What’s another eord for clever?” |
e.g. stuppid T. asks, “What’s the opposite of clever?” |
7. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
e.g. (to) forget T. asks, “How do you say `quên` in English?” |
8. T’s eliciting questions :
Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết.
+ Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
+ Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
+ Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng.
+ Viết: Học sinh viết từ vào tập.
Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm việc đó, bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ củ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sau thời gian áp dụng sáng kiến vào trong thực tế giảng dạy của nhà trường và thu được những kết quả nhất định tôi nhận thấy rằng việc áp dụng sáng kiến vào trong thực tế là hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng giảng dạy Tiếng Anh cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh khối 4 nói riêng. Không những vậy sáng kiến cũng rất dễ áp dụng rộng rãi trong các trường tiểu học vì sáng kiến không cần sự đầu tư quá lớn về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Điều quan trọng nhất là người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, ham học hỏi, năng động, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập liên quan tới môn học, giúp các em có thêm hứng thú học tập.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Đối với giáo viên:
+ Phải hiểu rõ mục đích của việc dạy các hoạt động tự chọn mônTiếng Anh cho học sinh tiểu học.
+ Người giáo viên phải nắm chắc các kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để có thể truyền thụ tốt nhất tới học sinh.
+ Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí, lứa tuổi của học sinh. Để có thể lựa chọn nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm kích thích hứng thú học tập của tất cả các đối tuợng học sinh.
+ Phải không ngừng học tập để, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của môn học.
- Đối với học sinh:
+ Cần nhận thức rõ vai trò của các hoạt động tự chọn trong việc học tiếng Anh cũng như tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Anh đối với việc phát triển nghề nghiệp của các em trong tương lai.
- Đối với phụ huynh học sinh:
+ Cần quan tâm đến việc học tập của con em mình. Định hướng tạo điều kiện cho các em tiếp cận với các chương trình truyền hình bằng Tiếng Anh phù hợp với lứa tuổi của các em.
- Đối với các cấp lãnh đạo:
+ Tổ chức các buổi hội giảng nhằm tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội học tập và trao đổi kinh nghiện giảng dạy.
+ Quan tâm hơn nữa, tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, cũng như môi trường để giúp giáo viên có thể giảng dạy tốt hơn.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua thực tế gần một năm áp dụng sáng kiến váo thực tế giảng dạy và thăm dò ý kiến của học sinh tôi nhận thấy các em không còn phải lo sợ khi đến tiết học nghe, các em hứng thú, hăng say luyện tập và kết quả tiếp thu bài của học sinh tốt hơn . Cụ thể:
10.1. Kết quả khảo sát học sinh về sự yêu thích môn học sau khi thực hiện đề tài:
Lớp |
Sĩ số |
Sau khi thực hiện đề tài |
|||
Thích |
% |
Không thích |
% |
||
4A |
27 |
20 |
74 |
7 |
25,9 |
4B |
28 |
23 |
82,1 |
5 |
17,8 |
4C |
28 |
25 |
89,2 |
3 |
10,7 |
10.2. Bảng khảo sát kết quả học tập sau khi thực hiện đề tài :
Lớp |
Sĩ số |
Sau khi thực hiện đề tài |
|||
Hoàn thành |
% |
Chưa hoàn thành |
% |
||
4A |
27 |
27 |
100 |
0 |
0 |
4B |
28 |
28 |
100 |
0 |
0 |
4C |
28 |
25 |
89,2 |
3 |
10,7 |
* Kết quả tham gia các cuộc thi giao lưu môn Tiếng Anh:
- Thi Olympic Tiếng Anh trên Internet:
Cấp huyện: 01 giải nhất, 01 giải Ba, 02 giải khuyến khích. Cấp tỉnh: 01 giải ba
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số TT |
Tên tổ chức/cá nhân |
Địa chỉ |
Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến |
1 |
Vũ Thị Huyền Tâm |
Trường TH ....... |
Môn Tiếng Anh lớp 4 |
-
Báo cáo SKKN- Nguyễn Thị Thanh Hảo
-
Phiếu đăng ký SKKN
-
Giấy chứng nhận SKKN
-
Báo cáo SKKN- Nguyễn Thị Thơm
-
Báo cáo SKKN- Trần Thị Minh Loan
-
Báo cáo SKKN- Đỗ Thị Tuyết Nhung
-
Báo cáo SKKN- Trần Thị Thuỳ
-
Trao 50 suất học bổng đến sinh viên có thành tích xuất sắc
-
Cùng con khơi dậy tiềm năng tự nhiên mỗi ngày
-
Trao 40 suất học bổng đến học sinh dân tộc thiểu số
-
Bình Định: Tuyên dương 371 học sinh giỏi, xuất sắc
-
Trường xây nhà tình nghĩa cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn