Thứ tư, 01/10/2025 05:17:57
TRẠI TỪ TRONG CA DAO NAM BỘ

Ngày: 30/11/2018

Trong giao tiếp hàng ngày của người Nam Bộ đã xuất hiện rất nhiều hiện tượng trại từ.  Chẳng hạn, trại từ r thành d, tr thành t, trại từ trong xưng hô : anh, chị, cô, dượng, cậu, ông, bà thành ảnh, chỉ, cổ, dưởng, cẩu, ổng, bả.v.v.

Hiện tượng trại từ này, còn xuất hiện nhiều trong ca dao Nam Bộ. Trước hết, nó thể hiện sự phong phú về từ ngữ trong giao tiếp của người Nam Bộ. Mặt khác, nó còn bộc lộ tính chân chất, thật thà của con người vùng sông nước. Chúng ta hãy tìm hiểu hiện tượng này qua một số câu ca dao ngọt ngào của Nam Bộ.

Trong một câu có dùng điển tích thể hiện tình cảm của người con trai đối với người yêu của mình cũng có đến ba từ bị nói trại :

Tiết Nhơn Quý nằm trong trại gỗ

Làm bao nhiêu công cán cũng đổ cho bọn Trương Huờn

Anh với em như sợi dây đờn

Khi dùng khi thẳng giận hờn làm chi ?

Tiết Nhơn Quý là một tướng tài của đời Đường, sau có con là Tiết Đinh San, chinh phạt Đông, Tây giữ yên và mở mang bờ cõi. Lúc đầu, khi mới gia nhập quân ngũ, Tiết Nhơn Quý làm Hỏa đầu quân, tuy nhiên cũng đã lập được nhiều công cán nhưng bị Trương Sỹ Quý hiệu là Trương Hoàng cướp hết. Ở câu trên, từ Nhân trại thành Nhơn, từ Hoàng  trại thành từ Huờn và từ đàn trại thành từ đờn.  Điều đặc biệt trong cách nói trại này là tất cả âm “an hoặc ang” đều trại thành “ơn”. Từ nhân trong giao tiếp trại thành nhơn còn xuất hiện rất nhiều như : nhơn nghĩa, nhơn ái, nhơn tâm, nhơn tình thế thái…Còn từ đờn trại của đàn cũng xuất hiện khá nhiều, thậm chí trên các nhạc hiệu của chương trình phát thanh, truyền hình như : Đờn ca tài tử . Mặc dù, từ đờn là từ của địa phương Nam Bộ nhưng dùng trong “ đờn ca tài tử” hay hơn “ đàn ca tài tử” vì tính dân dã,  rất phù hợp với tính chất tài tử.

Khi nói về chuyện không làm thì thôi, còn đã làm thì phải làm đến nơi đến chốn, không được bỏ dở nửa chừng khi đó mọi người sẽ chê cười :

Bảy với ba tính ra thời một chục

Con tam với lục tính lại cửu chương

Liệu bề đát đặng thì đươn

Đừng gầy mà bỏ thế thường cười chê.

Trong câu này người Nam Bộ đã nói trại hai từ : đặng, đươn. Đặng là trại của từ được, từ đươn là trại của từ đan. Các từ này hiện nay vẫn còn dùng trong giao tiếp hàng ngày. Ví dụ : Từ đặng trong “Hai đứa nó đặng giường, đặng chiếu nhau lắm !” ý chỉ sự hòa hợp vui vẻ trong đời sống vợ chồng. Hay từ đươn trong đươn rổ, đươn lờ, đươn lợp. Từ đặng cũng xuất hiện trong tục ngữ :“Đặng chim quên ná, đặng cá quên nôm”.

          Một số từ khác cũng trại như : Từ hoa hồng trại thành hoa hường trong câu :

Trồng hường bẻ lá che hường

Nắng che mưa đậy cho hường tốt tươi.

Hay từ nghĩa trại thành ngãi trong câu :

Ngãi nhân mỏng dánh như cánh chuồn chuồn

Khi vui nó đậu khi buồn nó bay.

Cái hay của tất cả các cách nói trại này là vẫn hiểu đúng, hiểu đủ theo nghĩa gốc của từ ban đầu chưa bị trại. Và trại từ đã tạo thêm sự phong phú cho ngôn ngữ Nam Bộ.

Lê Dũng
Tin liên quan