Bùi Hữu Nghĩa

Ngày đăng : 11-09-2012

TÓM TẮT TIỂU SỬ THỦ KHOA BÙI HỮU NGHĨA (1807-1872)

Bùi Hữu Nghĩa hiệu là Nghi Chi là một trong những nhà yêu nước thời cận đại. Ông sinh năm Đinh Mão (1807) tại thôn Long Tuyền, tổng Định Thới, phủ Định Viên, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc phường An Thới và Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ). Cụ thân sinh ông là Bùi Hữu Đá, gia đình sống bằng nghề chài lưới.

Ngay từ nhỏ, Bùi Hữu Nghĩa đã có sẵn tư chất thông minh, ham hoc. Gia đình nghèo khó, song cha mẹ vẫn tạo điều kiện cho ông học tập tốt. Xã trưởng Ngô Khắc Giản là người rất mến tài đức của Bùi Hữu Nghĩa, đã nhận đỡ đầu và giới thiệu ông lên Biên Hòa thọ giáo thầy đồ Hoành, tức Nguyễn Phạm Hàm, một cộng sự của thủ lĩnh Lê Văn Khôi.

Trong thời gian học tập tại Biên Hòa, ông ở trọ nhà ông Nguyễn Văn Lý, làng Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, được gia đình cụ Lý hết sức mến thương, tạo điều kiện cho ông "nấu sử sôi kinh".

Nhờ sự chỉ dạy tận tình của thầy, sự khuyến khích giúp đỡ của bạn đồng môn nên Bùi Hữu Nghĩa học hành rất tiến bộ. Tháng 02 năm Ất Vị (1835) Bùi Hữu Nghĩa tham dự khoa thi Hương, trường Gia Định và đã đỗ Giải Nguyên (đỗ đầu). Mới 28 tuổi, nhưng danh tiếng của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa đất Long Tuyền đã vang lừng khắp lục tỉnh. Một năm sau (năm Bính Thân 1836), ông đi dự thi Hội ở Huế, nhưng không may thi rớt. tuy vậy, ông vẫn được vua Minh Mạng ưu ái cho lưu lại Triều đình Huế làm tập sự tại Bộ Lễ Một thời gian rồi được cử đi sứ sang Trung Quốc. Khi trở về nước, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Phước Chánh, thuộc phủ Phước Long (Biên Hòa). Thời gian này, ông kết hôn cùng cô Nguyễn Thị Tồn, con gái cụ Nguyễn Văn Lý.

Tuy làm quan lớn, nhưng Bùi Hữu Nghĩa luôn giữ mình thanh liêm, chính trực. Nhiều lần xử kiện, ông luôn giữ thái độ công chính liêm minh, bênh vực quyền lợi chính đáng của người nghèo, ông đã mắng kẻ hối lộ, nghiêm trị kẻ gian. Lối xử ấy đã làm hạ uy tín bọn tham quan ô lại, vì thế ông bị đổi xuống làm Tri Huyện Trà Vang (nay là Trà Vinh).

Trà Vang là nơi có nhiều người Khơme sinh sống. Ở đây, ông đã bênh vực người khơme đấu tranh chống lại một nhóm người Hoa giàu có được bọn tham quan đầu tỉnh ủng hộ, để giành lại quyền làm chủ Kinh Láng Thé, dẫn tới sự xung đột quyết liệt giữa hai bên Hoa - Khơme, làm thiệt mạng nhiều người. Bố chánh Truyện vì thù oán cá nhân, sẵn cơ hội này cấu kết với Tổng đốc Uyển cho lính bắt giam ông và dâng sớ về Triều đình Huế kết tội ông là "Xúi dân làm loạn, chủ mưu giết người". Vua quan Triều đình Huế không xác minh sự việc, đã hạ chiếu kết án tử hình Bùi Hữu Nghĩa.

Biết rõ bọn Uyển, Truyện có ý hãm hại chống mình, bà Nguyễn Thị Tồn đã vượt muôn dặm sơn khê ra Kinh đô Huế, vào Tam Pháp Ty, dâng sớ trước sân rồng kêu oan cho chồng.

Được Thượng thư Bộ lại Phan Thanh Giản tận tình giúp đỡ, nhà vua sau khi cho thẩm tra xem xét, đã tha tội chết cho Bùi Hữu Nghĩa. Nhưng buộc ông phải ra trận lập công chuộc tội bằng cách đi trấn nhậm tại đồn Vĩnh Thông, Châu Đốc với chức danh "Thủ Ngự". Ở đây, ông có nhiệm vụ dẹp yên những cuộc "nổi loạn" của người Miên. Đồn Vĩnh Thông thuộc huyện Hà Âm, Tịnh Biên (An Giang ngày nay) là một địa danh rất hiểm trở, ông và quân lính phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ. Nhưng ông đã lập nhiều chiến công và được thăng chức phó Quản Cơ.

Bà Nguyễn Thị Tồn đã được Thái hậu Từ Dũ khen ngợi và tặng cho danh hiệu "TIÊT PHỤ KHẢ GIA". Giải oan cho chồng xong, bà từ giã kinh đô trở về. Đến Biên Hòa bà lâm bệnh nặng và qua đời ở nhà cha mẹ ruột.

Nơi biên giới heo hút xa xăm, Bùi Hữu Nghĩa luôn phải sống trong điều kiện khắc nghiệt và thường phải chiến đấu chống lại những cuộc tập kích của quân Miên. Trong một lần bị tấn công bất ngờ, ông bị bắt đưa về Cămpuchia giam tại U Đông (Ou Dong). Vua Cămpuchia lúc đó là An Đuông, vốn biết tiếng quan Trị huyện Bùi Hữu Nghĩa qua vụ Rạch Láng Thé, có cảm tình với ông nên đã tha chết và cho người đưa ông về xứ. Khi về nước, Bùi Hữu Nghĩa ghé thăm quê nhà sau ba năm xa cách. Bà Nguyễn Thị tồn qua đời cũng đã tròn ba năm. Con gái đầu của ông là Bùi Thị Xiêm cũng đã mất. Đau thương đến với Bùi Hữu Nghĩa thật là vô hạn. Nhưng ông phải nén đau thương để tiếp tục phận sự nơi biên ải xa xôi.

Những ngày còn lại ở biên giới, ông tục huyền với bà Lưu Thị Hoán (Lưu Thị Chỉ) con gái ông xã trưởng Lưu Văn Dụ.

Vì mang nặng nỗi buồn gia đình, ngao ngán cảnh quan trường đầy tham nhũng bất công, sau khi về Đồn Vĩnh Thông một thời gian, Bùi Hữu Nghĩa đã gởi sớ lên triều đình xin từ chức. Sau đó, ông cùng vợ về quê ở Bình Thủy, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, lấy biệt hiệu là "Liễu Lâm chủ nhân".

Trước cảnh đất nước lâm nguy, những người tri thức yêu nước như cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa không thể khoanh tay ngồi nhìn giang sơn sa vào tay giặc Pháp, nhân dân khổ cực lầm than. Ngoài việc dạy học, chữa bệnh cứu dân lành, Bùi Hữu Nghĩa đã cùng Phan Văn Trị tham gia nhóm "Tao Đàn Bà Đồ", tham gia phong trào Văn thân chống Pháp. Tuổi cao sức yếu, không còn xông pha chiến trận, nên ông đã dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chống quân xâm lược và bọn tay sai bán nước, cổ vũ phong trào yêu nước của nhân dân ta.

Biết Bùi Hữu Nghĩa là một sĩ phu yêu nước, đang cổ vũ nghĩa sĩ đứng lên giúp nước, trừ gian, thực dân Pháp đã dùng mọi cách dụ dỗ mua chuộc ông. Nhưng Bùi Hữu Nghĩa tỏ rõ lòng yêu nước, bất khuất của người chí sĩ. Vì vậy, năm 1868, ông bị giặc Pháp bắt ở Vĩnh Long. Sau đó chúng giải ông về Gia Định, cho tay sai là Đỗ Hữu Phương bảo lãnh về nhà riêng tiếp đãi tử tế hòng mua chuộc ông. Nhưng cuối cùng bọn chúng vẫn không khai thác được gì; ngược lại, ông còn nói thẳng với Đỗ Hữu Phương: "Đầu tôi không sợ rơi, mà chỉ sợ phải đội chung trời với những kẻ đang thiêu đốt giang sơn này". Vì sợ dư luận lên án nên Đỗ Hữu Phương đã thông đồng với giặc Pháp để thả ông về.

Trong mười năm về ở ẩn, Bùi Hữu Nghĩa vẫn canh cánh bên lòng nỗi đau của người dân mất nước, non sông chìm trong máu lửa, ông vẫn nuôi hy vọng ở lớp trẻ sau này sẽ gánh vác việc non sông. Vì thế ông đã dành hết thời gian, tâm huyết của một nhà giáo đào tạo lớp học trò và khuyên họ nên học những điều tốt để trở thành người hữu ích cho dân, cho nước.

Cũng trong thời gian về ở ẩn, Bùi Hữu Nghĩa đã sáng tác nhiều thơ văn nói về thời cuộc. Thơ văn của Bùi Hữu Nghĩa chính là tiếng nói của tấm lòng ông, của nhân dân trong hoàn cảnh đau thương của đất nước bằng những lời lẽ giản dị, chân thật và sâu sắc. Về tuồng, ông đã thành công và nổi tiếng với vở "Kim thạch kỳ duyên". Về thơ, có rất nhiều bài, nội dung chủ yếu vẫn thể hiện lòng yêu nước, thương dân, đúng như cuộc đời và tấm lòng ông vậy.

Tuy không còn đủ sức chống chọi với cuộc đời, nhưng ông vẫn theo dõi thời cuộc, những bước đi của dân tộc. Khi nghe tin cuộc nổi dậy của nghĩa quân chống Pháp thất bại; vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc, Bùi Hữu Nghĩa không chịu đựng nổi sự đau khổ, đã qua đời vào ngày 21 tháng giêng năm Nhâm Thân - 1872, hưởng thọ 65 tuổi.

Đến nay, đã hơn một thế kỷ trôi qua, nhưng tên tuổi và sự nghiệp của vị Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa vẫn là vầng hào quang chói lọi đối với các thế hệ noi theo. Cuộc đời của ông là một tấm gương sáng về lòng yêu nước, thương dân; về đức tính thanh liêm, chánh trực; về khí phách kiên cường đấu tranh chông áp bức, bóc lột, bất công, cường quyền. Ông có những quan điểm tiến bộ vượt lên khuôn khổ nho giáo phong kiến đương thời về quần chúng nhân dân, dân tộc, phụ nữ... Thơ văn của Bùi Hữu Nghĩa là vũ khí đấu tranh chống bè lũ bán nước và thực dân xâm lược, cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thể hiện lòng yêu nước thương dân tha thiết. Ông còn là người thầy giáo mẫu mực, người thầy thuốc tận tụy, hết lòng phục vụ nhân dân, xứng đáng cho các thế hệ noi theo.

Với đạo đức, tài năng và công lao như vậy, Bùi Hữu Nghĩa xứng đáng là Nhà yêu nước thời cận đại, nhà thơ, nhà soạn tuồng nổi tiếng của miền Nam cuối thế kỷ 19, là một danh nhân văn hóa của đất nước, đúng như câu ca dao vẫn được truyền tụng trong nhân dân:

Đồng Nai có bốn rồng vàng.

Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi..

(Theo quyển Danh nhân di tích lịch sử văn hóa tỉnh Cần Thơ, do Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Cần Thơ xuất bản năm 2003 )

Xem thêm...