Ngày: 03/03/2015
Tăng cường năng lực triển khai dạy học
(Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học): Gồm 15 tiết (Mã mô đun TH15)
1.
Phương pháp dạy học tích cực là gì?
a. Định hướng đổi
mới phương pháp dạy học: Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
b. Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc
trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình
chiếm lĩnh tri thức. tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan
trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng
thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên
tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là
mầm mống của sáng tạo. Tính tích học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng
hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích
phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn
thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn…
c. Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực là
một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo
dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt
động, chủ động, PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích
cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ
lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự
hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động
học thì mới thành công.
d. Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy
học sinh làm trung tâm.
Dạy học
lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương như: dạy học tập
trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học hướng vào người học…
Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò
của học sinh trong qúa trình dạy học.
Thông
qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động
cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không
ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không
chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn
chế.
Như vậy, khi đã coi trọng
vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương nhiên phải phát huy tính
tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung
tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan
điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả qúa trình
dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ
không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
2. Đặc
trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
a. Dạy và học không qua tổ chức các hoạt động học tập của
học sinh.
Trong phương pháp dạy học
tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ
thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do
giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa
rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn
hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành
động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
b. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem
việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học
ngay từ bậc Tiểu học Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự
học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương
pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học,
khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên
gấp bội.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp
tác.
Trong một lớp học mà trình
độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng
phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn
thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công
tác độc lập.
Tuy nhiên, trong học tập,
không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt
động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò,
tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung
học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được
bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp
hoặc trường. . Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải
quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá
nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể
có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn
nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ.
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện
nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ
độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng
dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên
quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham
gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là
năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị
cho học sinh.
Việc
kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc
giải quyết những tình huống thực tế.
Từ dạy
và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn
thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực
chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái
độ theo yêu cầu của chương trình. . Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu
rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
3.
Một số phương pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường TH
a. Phương pháp vấn đáp
* Vấn đáp: Là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học
sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua
đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận
thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
* Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ
yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không
cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư
phạm. Đó là biện pháp được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa
mới học.
* Vấn đáp giải thích - minh
hoạ:
Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những
câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp
này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe - nhìn.
* Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ
thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản
chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham
muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận – giữa
thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định.
b. Phương pháp đặt và giải
quyết vấn đề.
Trong một xã hội đang phát triển
nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải
quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự
thành công trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt
ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, không chỉ có ý nghĩa ở
tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết
vấn đề thường như sau:
*
Đặt vấn đề,
xây dựng bài toán nhận thức - Tạo
tình huống có vấn đề;
- Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;
- Phát hiện vấn đề cần giải quyết
*
Giải quyết
vấn đề đặt ra - Đề xuất cách
giải quyết;
-
Lập kế hoạch giải quyết;
-
Thực hiện kế hoạch giải quyết.
* Kết luận: - Thảo luận kết quả và đánh giá;
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết
nêu ra;
- Phát biểu kết luận;
- Đề xuất vấn đề mới.
* Có thể
phân biệt bốn mức trình độ đặt và giải quyết vấn đề:
Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu
cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng
dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi
ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. . Giáo viên và học sinh cùng đánh
giá.
Mức 3: Giáo viên cung cấp thông
tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh,
tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát
hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề
giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý
kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
c. Phương pháp hoạt động nhóm: Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến
6 người. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu
nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của
tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm
tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần
việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ
lại vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp
đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết
quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để
trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại
diện hoặc phân công mỗi thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho
nhóm là khá phức tạp.
* Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành:
· Làm việc chung cả lớp:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức
- Tổ chức các nhóm, giao
nhiệm vụ
- Hướng dẫn cách làm việc
trong nhóm.
· Làm việc theo nhóm:
- Phân công trong nhóm.
- Cá nhân làm việc độc lập
rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm
- Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả làm
việc theo nhóm
· Tổng kết trước lớp:
- Các nhóm lần lượt báo cáo
kết quả.
- Thảo luận chung.
- Giáo viên tổng kết, đặt
vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các
băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết
của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ
giáo viên. Thành công của bài học phụ
thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này còn
gọi là phương pháp cùng tham gia.
d. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức
cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
- Học
sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi
trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây
hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo
điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
- Khích
lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực.
- Có
thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
v Cách tiến hành có thể như
sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình
huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian đóng
vai.
- Các nhóm
thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm
lên đóng vai.
- Giáo viên
phỏng vấn học sinh đóng vai.
- Vì sao em lại ứng xử như vậy?
- Cảm xúc, thái độ của em khi
thực hiện cách ứng xử?
- Lớp thảo luận, nhận xét : Cách ứng
xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
-
Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống.
v Những điều cần lưu ý khi sử
dụng:
-
Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
-
Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai
- Nên
khích lệ cả những học sinh nhút nhát tham gia.
e. Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp
học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định
về một vấn đề nào đó.
Thực hiện phương pháp này, giáo
viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận.
v Cách tiến hành
- Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề
cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu
và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả các ý
kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ to.
- Phân loại ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến
chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý.