Ngày: 31/03/2015
Trao đổi với báo chí tại Hội nghị thường niên cán bộ chủ
chốt mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN) về đảm bảo chất lượng đang
diễn ra tại Hà Nội, TS. Phạm Xuân Thanh, Phó cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm
định chất lượng giáo dục Bộ GD-ĐT cho
biết: “Các trường đại học Việt
TS Phạm Xuân Thanh.
Chấp nhận khiếm khuyết
Thưa ông, tính đến nay, Việt Nam mới chỉ có 23 chương trình
được đánh giá đạt tiêu chuẩn của AUN, có phát triển hơi chậm so với khu vực?
Nếu so với các nước khác, con
số 23 chương trình của Việt
Năm 2015, trường ĐH Khoa học tự nhiên – ĐH QGHN tiên phong thực hiện đánh giá trường,
ông nghĩ sao về điều này?
Phải nói về lịch sử 1 chút, khi
triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng và triển khai đánh giá, các tổ chức bao
giờ cũng cân nhắc xem triển khai cái gì trước. Triển khai đánh giá các trường
hay chương trình. Mỗi nơi có cách tiếp cận, mỗi nơi có 1 ưu thế. Đánh giá trường
thì có một bộ tiêu chuẩn để đánh giá hầu hết các trường trong khu vực nước đó.
Còn kiểm định chương trình thì hay ở chỗ, đánh giá trực tiếp vào việc dạy và
học.
AUN đã lựa chọn triển khai đánh
giá chương trình trước, vì chiến lược của họ là tập trung cải tiến các chương
trình bên trong chất lượng đào tạo.
Như tôi đã nói, các trường đại
học trong khu vực rất đa dạng cho nên chúng ta triển khai đánh giá nhà trường
sẽ gặp rất nhiều khó khăn hơn đánh giá chương trình vì đánh giá chương trình
kiểu gì cũng tìm ra chương trình mạnh và họ sẽ đăng ký đánh giá bộ tiêu chuẩn
ấy.
Đó là lý do mà từ năm 2006 đến
nay chúng ta có 23 chương trình được đánh giá nhưng chưa có trường nào được AUN
đánh giá.
Năm nay, ngoài việc tiếp tục
đánh giá chương trình, AUN bắt đầu triển khai đánh giá nhà trường. Có 1 bộ tiêu
chuẩn đánh giá toàn bộ hoạt động của nhà trường một cách tổng thể xem tổ chức
hoạt động của nhà trường như thế nào, công tác đảm bảo chất lượng của nhà
trường ra sao... Đây là động thái rất phù hợp với chúng ta hiện nay. AUN kêu
gọi các trường đại học Việt
Chúng tôi rất hoan nghênh ĐH
QGHN đăng ký tham gia vì biết rằng đánh giá đầu tiên sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Chúng tôi đánh giá rất cao sự nỗ lực, quyết tâm này.
Tôi hy vọng việc Trường ĐH Khoa
học Tự nhiên tham gia kiểm định của AUN sẽ gây ảnh hưởng tới các trường đại học
Việt Nam khác, từng bước, từng bước sẽ có nhiều trường hơn trở thành thành viên
của các tổ chức đảm bảo chất lượng khu vực và quốc tế.
Nếu chúng ta cứ làm như trước
đây cứ tự khen mình là tốt mà không biết bên ngoài họ đánh giá mình như thế
nào. Chúng ta nên chấp nhận để cho họ chỉ ra những khiếm khuyết của mình, sau
đó mình khắc phục, hoàn thiện, các trường sẽ mạnh hơn và có chất lượng hơn,
từng bước đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
Còn nếu vẫn làm như trước đây,
tự khen mình mà không biết bên ngoài đánh giá mình như thế nào thì không thể
nào tốt được.
Hình thành văn hóa minh chứng
Theo ông, khó khăn của các trường đại học Việt
Ở Việt
Các trường trên thế giới có thể
không có những báo cáo định kỳ như của chúng ta, nhưng văn hóa tự đánh giá đòi
hỏi nhà trường phải định kỳ triển khai tự đánh giá hiện trạng của nhà trường
những gì tốt, những gì chưa tốt, dự định sắp tới làm như thế nào . Và muốn thấy
lịch sử sự phát triển của trường nào, chỉ cần xem hệ thống báo cáo tự đánh giá
của nhà trường là biết trường đó mạnh như thế nào.
Trong hơn 10 năm qua, với việc
các trường đại học Việt Nam triển khai và tham gia đánh giá trong và ngoài
nước, đã từng bước dần hình thành văn hóa minh chứng, đòi hỏi nhà trường lưu
trữ lại tất cả hoạt động của mình. Với cách đó đã khắc phục được nhược điểm của
mình.
Nếu như chúng ta làm được việc
này, thì không cần các đơn vị ngoài đánh giá mà bản thân nhà trường cũng nhìn
thấy được lộ trình triển khai và có động cơ để điều chỉnh hoạt động và hoàn
thiện trong nhà trường các chương trình đào tạo.
Đại học VN mới tập trung vào
cách thức tổ chức điều hành của nhà trường chứ chưa đi sâu vào vấn đề người học
như thế nào
Đánh giá chưa đi sâu vào vấn đề người học
Ông có thể nói rõ hơn về ảnh hưởng của việc kiểm định đến
việc nâng cao chất lượng dạy và học?
Có 2 loại đánh giá chính mà thế
giới quan tâm, áp dụng, là đánh giá nhà trường và chương trình.
Cụ thể, hoạt động của một nhà
trường rất rộng, nên khi đánh giá chỉ tập trung vào cách thức tổ chức, điều
hành và hệ thống đảm bảo chất lượng nhà trường chứ không đi sâu vào từng việc
dạy và học .
Nhưng khi đánh giá chương
trình, ngành cụ thể của một trường đại học thì ngành đó cũng phải nói rõ nội
dung, mục tiêu, tài liệu, kiến thức, cơ sở vật chất, thư viện, giảng viên đã
đáp ứng nhu cầu học tập, yêu cầu nhà sử dụng hay chưa…Đây là những tiêu chí cụ
thể trong bộ đánh giá, nếu các trường thực hiện được mục tiêu đó thì chỉ tập
trung vào việc dạy và học là chính.
Ngay cả những nơi dạy lý thuyết
nhiều quá mà sau này sinh viên không áp dụng được, không cần thiết trong cuộc
sống thì các chuyên gia đánh giá góp ý điều chỉnh vì cái đích của chúng ta là
người học, đối tượng cần quan tâm và tốt nghiệp họ cần gì.
Cách AUN lựa chọn triển khai
đánh giá chương trình trước là hợp lý.
Tại sao ở trong nước thời gian vừa rồi chúng ta tập trung
đánh giá nhà trường mà không tập trung đánh giá chương trình?
Thực ra chúng ta mới bắt đầu
làm công việc kiểm định này từ năm 2002. Khi đó, nhân lực thiếu, chưa có nhiều
kinh nghiệm, hơn 200 trường đại học có gần 3.000 chương trình. Để xây dựng mỗi
chương trình một bộ tiêu chuẩn đánh giá là rất khó khăn.
Vì những lý do này, và với mục
đích yêu cầu các trường nhanh chóng đi vào guồng để xây dựng hệ thống đảm bảo
chất lượng, chúng tôi đã lựa chọn trước việc xây dựng bộ tiêu chuẩn của nhà
trường và yêu cầu các trường tự đánh giá. Trong đó nhà trường rà soát các hoạt
động của nhà trường .
Với cách này, chúng tôi tác
động tới cả hệ thống hơn 400 trường ĐH và CĐ. Tuy nhiên, dù cách tiếp cận này
hiệu quả nhưng chưa đạt chất lượng như chúng tôi mong muốn vì mới tập trung vào
cách thức tổ chức điều hành của nhà trường chứ chưa đi sâu vào vấn đề người học
như thế nào, người dạy như thế nào.
Trong vài năm qua, chúng tôi đã
ban hành 3 bộ tiêu chuẩn kiểm định chương trình. Năm nay, chúng tôi đang trình
ban hành bộ tiêu chuẩn dùng chung cho tất cả các chương trình giáo dục đại học.
Và theo như thế hoạch đưa ra từ 2010, thì mục tiêu giai đoạn 2015 – 2020 sẽ có
90% số chương trình giáo dục đại học trong cả nước được đánh giá theo chuẩn
này. Đây là mục tiêu rất lớn, nhưng rất cần thiết, nếu chúng ta muốn thay đổi
chất lượng dạy và học trong nhà trường hiện nay.
Khuyến khích các trường cải tiến chất lượng
Khi triển khai bộ tiêu chuẩn đánh giá như vậy, ông hy vọng
Việt
Mục đích của chúng tôi là
khuyến khích các trường cải tiến chất lượng, chỉ 1 khâu thôi với như thế trường
nào cũng làm được. Trường rất mạnh thì có thể cải thiện được chương trình của
mình để đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế còn các trường quá yếu thì cải tiến
phấn đấu vươn lên.
Chúng tôi hy vọng và tin tưởng
rằng chúng ta sẽ nhanh chóng có được nhiều chương trình đạt được chuẩn quốc
gia, và ngày nhiều hơn của khu vực AUN và sau đấy nữa là chuẩn quốc tế. Như vậy
chúng ta sẽ có 1 số trường và 1 số chương trình đạt chuẩn khu vực và chuẩn quốc
tế sẽ ảnh hưởng tới các trường khác.
Ở đây, chúng tôi chú trọng tới
vấn đề cải tiến chất lượng chứ không phải xếp hạng. Thực ra xếp hạng là sự ghi
nhận thành tích mà các đơn vị đạt được. Nhưng họ chỉ ghi nhận thành tích tại
thời điểm đấy thôi, và không để ý quá trình trước đấy nhà trường phải đầu tư
bao nhiêu công sức, thời gian để đạt đỉnh cao ấy. Chúng tôi quan tâm giai đoạn
đầu, tức là giúp họ đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Khi họ vươn lên được rồi,
chắc chắn họ sẽ được ghi nhận một cách dễ dàng.
Việc phân tầng xếp hạng Việt
Bộ GD-ĐT đã có văn bản trình
thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, Nghị định chưa ban hành. Nhưng điều đáng nói là
ở đây, mục tiêu của việc phân tầng, xếp hạng là thúc đẩy quá trình cải tiến
chất lượng, thúc đẩy các trường từng bước phấn đấu vươn lên, chúng ta chú trọng
vấn đề này hơn chứ không phải phân loại trường này tốt, trường kia xấu để đề
cao hay làm mất uy tín của một số trường. Chúng ta đưa ra mức thang để các
trường phấn đấu.