Ngày: 13/10/2015
PHÒNG GD- ĐT BÌNH XUYÊN
TRƯỜNG THCS HƯƠNG SƠN
CHUÊN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 6
HỌ VÀ TÊN GV: NGUYỄN THỊ MỸ
TUYỀN
TỔ: KHXH
NĂM
HỌC : 2014- 2015
A. MỞ ĐẦU
Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã
hội, môn Văn trong nhà trường có một vị trí rất quan trọng. Nó tác động sâu sắc
đến tâm hồn, tình cảm của con người, nó bồi đắp cho tâm hồn mỗi người trở nên
trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. M.Goóc- ki nói : “Văn học giúp con người
hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở
con người khát vọng hướng tới chân lý”. Văn học "Chắp đôi cánh" để
các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền văn hoá, xây dựng trong các
em niềm tin vào cuộc sống, vào con người, trang bị cho các em vốn sống, hướng
các em tới đỉnh cao của chân, thiện, mỹ. Vì vậy, nhiệm vụ của người giáo viên
dạy Văn là phải làm cho học sinh hiểu được cái hay cái đẹp của Văn học, kích
thích sự hứng thú học tập môn Văn cho học sinh. Một giờ dạy Văn là phải tạo ra
được những rung động thẩm mỹ sâu sắc khiến người ta say mê. Song nhiệm vụ cũng
không kém phần quan trọng nữa của giáo viên dạy Văn ở trường THCS là rèn luyện
kỹ năng làm văn cho học sinh. Giáo viên cùng toàn xã hội phải có trách nhiệm
gieo trồng những hạt giống tốt để thu hoạch hoa thơm trái ngọt về cả tri thức
và đạo đức. Với môn Ngữ văn thì hạt giống tốt về kiến thức văn học không chỉ
riêng nội dung ý nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm Tiếng Việt nào
đó mà học sinh cần phải có được những kỹ năng tốt để làm một bài văn một cách
thành thạo. Mặt khác, môn Văn từ lâu là một môn học khiến nhiều học sinh ngại
học, ngại viết. Do vậy đối với giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, ngoài việc
cung cấp nội dung bài dạy theo hướng dẫn của sách giáo khoa, sách giáo viên và
chuẩn kiến thức, kĩ năng chúng tôi còn phải rất quan tâm đến phương pháp rèn kỹ
năng hành văn cho học sinh. Đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 6. Việc rèn kỹ
năng làm văn tả cảnh trước hết rất thiết thực cho phần làm văn trong chương
trình Ngữ văn 6 - học kỳ II, bởi vì để làm được một bài văn miêu tả đúng và hay
không phải là điều đơn giản. Bên cạnh đó, việc rèn kỹ năng làm văn tả cảnh cho
học sinh, theo tôi còn là việc tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại học
văn của một số học sinh hiện nay. Vì vậy, với chuyên đề này, tôi muốn một phần nâng cao chất lượng bộ
môn Ngữ văn. Đồng thời xây dựng và phát triển tình yêu với môn Văn trong nhà
trường cho học sinh, giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình
thường như: dòng sông, cánh đồng, mái trường,…, rộng hơn là tình yêu quê hương,
tình yêu đất nước. Lý do trên đây khiến tôi mạnh dạn chọn đề tài “Phương pháp
rèn kỹ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 6 “
B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG
THCS
Qua thực tế giảng dạy của bản thân và
trao đổi với đồng nghiệp về dạy học các tiết Ngữ văn có liên quan đến văn tả
cảnh, bản thân tôi nhận thấy:
* Về phía giáo
viên :
- Do chưa có nhiều
kinh nghiệm trong công tác nên trong quá trình giảng dạy chưa đưa ra các biện
pháp tối ưu để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh, nhất là với những em yếu kém.
- Do sĩ số lớp
đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong
một tiết dạy. Bên cạnh đó, một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề.
*Về phía học sinh:
- Với địa bàn
tương đối khó khăn, học sinh chủ yếu là con em nông dân nên điều kiện kinh tế
còn hạn hẹp, nhận thức có phần còn hạn chế. Do vậy, các em chưa có điều kiện
mua thêm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn được tốt hơn.
- Một số học sinh vì lười học, chưa thực sự có
hứng thú với môn học nên không chuẩn bị tâm thế tốt cho giờ học văn.
- Hầu như tất cả
các em chưa có thói quen tìm hiểu, quan sát, ghi chép những điều xung quanh
mình…, vì thế mà việc viết được một bài văn miêu tả tốt còn hạn chế. Cụ thể qua
điều tra thực tế học sinh ở các lớp 6,7 các năm trước, tôi nhận thấy ý thức học
tập bộ môn Ngữ văn còn chưa cao và kết quả cụ thể qua khảo sát chất lượng về kĩ
năng làm văn miêu tả như sau: Giỏi, Khá: 24,6%; Trung bình: 45%; Yếu: 28,3%;
Kém: 2,1% Qua số liệu trên, tôi nhận thấy rằng, tỉ lệ học sinh yếu kém vẫn còn
nhiều, kĩ năng viết văn miêu tả của các em đang còn nhiều hạn chế. Từ thực tế
đó, là người trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi đã cố gắng để tìm ra
phương pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói chung cũng như kĩ năng
làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 6 nói riêng.
II. GIẢI PHÁP TRONG VIỆC RÈN KĨ NĂNG LÀM
VĂN TẢ CẢNH CHO HỌC SINH LỚP 6.
Qua tìm hiểu thực trạng dạy học môn
Ngữ văn ở 6 trường THCS nói chung và trường THSC Hương Sơn nói riêng, bản thân
đã thực hiện các giải pháp để rèn kĩ năng tả cảnh cho học sinh lớp 6 như sau:
1. Trước hết, giáo viên cần giúp học sinh
biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài.
Đề tài, chủ đề của bài văn quyết định cách
quan sát, tìm ý, sắp xếp ý và cách diễn đạt của bài văn. Nếu không nắm vững yêu
cầu của đề ra thì bài văn sẽ đi chệch hướng và không đạt yêu cầu. Nhiều học
sinh làm văn lạc đề, xa đề là vì vậy. Bởi thế, công việc đầu tiên cần làm là
luyện tập cho học sinh tìm hiểu đề để xác định đúng yêu cầu đề ra. Các yêu cầu
của đề đều nằm trong toàn bộ “lời văn” của đề ra. Vì thế việc đầu tiên là tìm
những từ ngữ thể hiện yêu cầu của đề bằng cách trả lời các câu hỏi : Tả cái gì ?
( xác định đối tượng miêu tả ), tả như thế nào ? ( đặc điểm, tính chất của đối
tượng ), Tả lúc nào ? ở đâu? ( thời gian, không gian ), tả để làm gì ? ( mục
đích miêu tả ). Khi trả lời tất cả các câu hỏi này chúng ta sẽ định hướng “bộ
xương”, cái “ khung “ của bài văn
Ví dụ: Em hãy miêu tả quê hương em vào
một buổi chiều nắng đẹp. Giáo viên cho học sinh thấy: Trên đây là một đề bài
dạng miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy thế nào là cảnh tổng hợp? Giáo viên phải chỉ rõ
cho học sinh thấy ta cần xác định cảnh tổng hợp nhờ những từ ngữ nào? Đề yêu
cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “một miền quê, quê hương em,
cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở...” Cảnh tổng hợp là như thế nào?- Là cảnh
gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ, của quê hương hay miền quê thường
là cánh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa giếng nước sân đình, khu vườn
nhà... sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu tả ở thời gian
nào? (mùa nào) ở không gian nào? ( cảnh đó như thế nào)... Việc xác định được
đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em rất nhiều trong việc định
hình được đối tượng miêu tả.
2. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn tả
cảnh.
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề,
xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được
hướng đi cho bài viết. Để giúp học sinh định hình được hướng đi của bài viết
văn tả cảnh, tôi đã hướng dẫn học sinh bước tìm ý cho bài văn tả cảnh:
- Nhất nhất phải
theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh chung sẽ tả, sau đó cụ
thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
- Bao quát không gian cảnh được coi là một
thao tác sơ khai của bức tranh cảnh, rất quan trọng trong việc định hình tâm
thế cũng như nhãn thế cho người thưởng thức bức tranh cảnh bằng ngôn từ. Vậy
học sinh cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào
? Thực tế tôi thấy học sinh thường viết một cách cộc lốc, cụt lủn, có khi chỉ
viết được một, hai câu cho phần tả bao quát. Nên dù không phải lĩnh vực tự
nhiên, nhưng tôi đã đưa ra theo ý như một công thức dễ nhớ cho học sinh:
+ Để tả bao quát
cảnh, trước hết phải có câu xác định vị trí miêu tả khái quát. Thường là một vị
trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được toàn cảnh miêu tả vào nhãn
quan của người quan sát một cách tương đối trọn vẹn.
+ Sau câu văn giúp
người đọc biết được vị trí của người quan sát là những lời văn nhận xét, đánh
giá khái quát đầy nghệ thuật về cảnh chung đó. Cũng không quên lưu ý với học
sinh rằng: Lời văn nhận xét, đánh giá khái quát đầy nghệ thuật là những lời văn
sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ sao cho cảnh tả nổi lên sống động, tự
nhiên, hồn hậu, trong sáng... sát hợp với yêu cầu của đề mà phần (a) đã xác
định và mang tính biểu cảm của người quan sát cảnh.
Ví dụ: Tả cảnh quê
hương em vào một buổi sáng mùa thu: Đứng trên đầu đê, ngắm nhìn toàn cảnh làng
quê, tôi như đang đắm mình trong sắc thu vàng của chốn quê hương thanh bình,
trù phú. Hay một ví dụ khác về cảnh quê
hương vào sáng mùa xuân : Đứng giữa cánh đồng, dang rộng cánh tay mà cảm nhận
về làng quê. Ôi! quê hương tôi đẹp như một nàng tiên đang mỉm cười trước nhân
gian, thật ấm áp, thanh bình , tươi tràn sức sốn. ...
- Những ý cốt yếu
nhất của một dàn bài văn miêu tả cảnh còn là cụ thể những cảnh nào? ( Nếu là đề
tổng hợp thì cảnh sẽ chia thành nhiều cảnh đơn, nếu là đề tả cảnh đơn thì cảnh
đơn sẽ có có những điểm nổi bật gì? Như thế nào? ) Muốn như thế thì người viết
phải biết quan sát và dẫn ra được hình ảnh cụ thể, tiêu biểu. Nhưng học sinh
phần lớn thường sa vào kiểu gặp đâu nói đó và không hề xác định được rằng mình
đang tả cảnh có mục đích là làm nổi lên diện mạo cảnh như thế nào, có làm bật
lên được tư tưởng chủ đề mà mình đã xác định được ở đầu bài yêu cầu không? Để
khắc phục được tình trạng này, tôi cho học sinh luyện kỹ năng xác định, lựa
chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả .
Ví dụ: Cảnh khu vườn vào buổi sáng mùa
thu thì có những đặc điểm gì nổi bật? Đầu tiên, giáo viên cho học sinh xác định
chủ đề của cảnh sẽ dựng là cảnh khu vườn tươi tốt, đầy hoa thơm trái ngọt, rất
thanh bình, dân giã mà mang được vẻ trù phú của chốn quê hương yêu dấu, đặc
biệt cảnh phải mang được dáng dấp của thời gian, không gian mà đề quy định (có
đặc trưng của mùa thu). Sau đó giáo viên hướng cho học sinh tái hiện từng hình
ảnh của khu vườn theo trí tưởng tượng nhưng phải sát với hiện thực . Ví dụ:
Cảnh giàn thiên lý trước sân nhà ngào ngạt dậy hương buổi sớm, hình ảnh cây cau
cạnh bể nước với những tàu lá già dang rộng, đọt lá non cao vút; hình ảnh vườn
hoa đua sắc vàng thu cùng ong bướm; hình ảnh vườn rau tươi tốt cũng rất mang
đặc trưng mùa thu: cải sen làm dưa đang lên ngồng, trổ hoa vàng rực, những ngọn
mồng tơi đang quăn mình leo lên bờ dậu để ra quả vắt mình sang thu; tiếp đó là
hình ảnh hàng cây ăn quả với những hương vị màu sắc của thu: Thơm lựng chuối
tiêu trứng cuốc đốm vàng, những trái na mở mắt nhìn nắng thu, cây hồng trái
chín như những chấm son trên nền trời thu... Với cách làm như trên tôi đã cho
học sinh luyện tập tìm đặc điểm cho nhiều cảnh khác nhau với những thời gian,
không gian đa dạng. Các em được luyện tập dưới hình thức: “thi nhau tìm đặc
điểm”, giáo viên hệ thống và giúp các em chọn lựa những đặc điểm tiêu biểu nhất
trong mỗi cảnh. Như thế sẽ tạo được hứng thú của học sinh với cảnh sẽ tả.
3. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong
văn miêu tả cảnh.
Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh
sẽ tả đã là một bước quan trọng song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là
dựng lại được cảnh một cách sống động, chân thực và có tính nghệ thuật. Vậy
những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ được diễn đạt như thế nào? Đó là một điều
giáo viên chúng tôi rất quan tâm. Thực tế là qua việc chấm bài văn miêu tả của
học sinh, tôi thấy một điều đáng buồn là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn,
diễn đạt lủng củng, thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng từ sai nghĩa , lặp từ,
lặp ý... Như vậy, để bài làm văn của học sinh diễn đạt trong sáng có sức hấp
dẫn tôi nghĩ rằng không có cách nào khác ngoài việc trau dồi ngôn từ nghệ thuật
cho mỗi học sinh. Để học sinh tự giác làm điều này là một việc làm rất khó, mà
nên để học sinh tự làm sau khi giáo viên đã tạo được trong lòng học sinh sự yêu
thích ngôn từ nghệ thuật, cũng như niềm yêu thích đối với môn học. Dựa vào tâm
lý lứa tuổi, chúng tôi đã gieo niềm yêu thích này qua việc cung cấp và phân
tích một số tư liệu được giáo viên chọn lọc kỹ càng trích trong các tác phẩm
của các nhà văn.
Ví dụ: Đoạn trích
miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều sau đây: “... Chiều buông, ánh mặt trời
trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều trải lên cành lá, mái nhà một màu vàng óng nom
đẹp lạ. Vườn cây nhà tôi cũng vậy. Giàn bầu mậm xanh tươi, lá non màu xanh
nhạt, lá già thì xanh thẫm. Ánh nắng chiều chiếu xuống giàn bầu, bí, cái cốt lá
xanh ngắt lọc qua một lượt hắt một màu xanh ngọc bích xuống vườn. Nhãn, bưởi,
mít và các loại cây khác nữa, tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô khổng lồ.
Đó là màu xanh no nắng, no gió và no thức nuôi cây. Vườn cây lao xao, gió
thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương hoa ngọt lịm... ” Giáo viên cũng cần
lưu ý với học sinh rằng, vẽ nên một bức tranh sinh động bằng ngôn ngữ là yêu
cầu cao đối với văn miêu tả. Do đó, hệ thống từ ngữ thường được dùng để tả cảnh
thường là những tính từ, từ láy. Bởi đây là lớp từ có giá trị gợi tả cao. Sau
mỗi một đoạn văn như thế, giáo viên phân tích những hình ảnh ngôn từ nghệ thuật
sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở học sinh, kích thích các em thích tìm và
viết những lời văn hay. Có lẽ, rèn kỹ năng diễn đạt là một phương pháp đòi hỏi
kỳ công nhất, nó cần phải mất một quá trình có nhiều bước. Sau khi tạo hướng
thú cho học sinh qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn lọc, tôi mới cho các em
luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh , yêu cầu
học sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng
những từ láy gợi hình, gợi âm để tập diễn đạt . Ví dụ : Hình ảnh cây đa ->
Cây đa sum suê, um tùm như chiếc ô khổng lồ, hứng lấy nắng mưa bảo vệ cho cái
giếng làng thân quen, thấp thoáng sau tán lá đa là mái đình cổ kính quê em ...
- Hình ảnh không gian đồng cỏ -> Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng nhọn
trải bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ may rung rinh
nhẹ nhàng trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn một điệu múa mềm mại
nhịp nhàng. Mấy chú chim sẻ tha thẩn
trong vùng cỏ may rộng tìm kiếm sâu bọ và đâu đây tiếng cuốc vọng vào thưa thớt
rồi tắt hẳn trong không gian đồng quê mùa thu . Tiếng chim ngoài bãi ->
Ngoài đê, ven ruộng ngô cánh bãi xanh um một màu lá mướt của ngô xen đỗ, xen
cà. Lại có tiếng chim khác nó bay vút lên cao thả vào không trung nghe mát
lành. Nó khoan thai, dìu dặt như ngón tay thon thả búng vào dây đàn thập lục,
nẩy ra tiếng đồng, tiếng thép lúc đầu vang to sau nhỏ dần nhỏ dần rồi tắt lịm …
Trong miêu tả người ta thường hay so sánh. Vì thế, ở giai đoạn luyện kỹ năng
diễn đạt như thế này, tôi đặc biệt chú ý đến phép so sánh trong các câu văn. Có
thể coi so sánh hay để tạo những nốt luyến cho những bản nhạc ngôn từ, những
nét đậm của bức tranh ngôn ngữ. Tôi đã hướng cho học sinh luyện tập cách dùng
nhiều từ so sánh khác nhau sao cho thật đa dạng phong phú gợi cảm, tạo ấn tượng
cho người đọc.
Ví dụ : - Dòng
sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình . - Không gian quê
hương y như một chiếc chuông lớn vô cùng treo suốt mùa thu . - Những lá sen già
khum khum chắng khác gì những chiếc thúng con đựng đầy ắp nắng chiều thu . -
Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn triệu
con mắt lá răm sáng trưng nắng hè . - Trăng về khuya cứ ngỡ là con thuyền đang trôi
trên dòng sông Ngân . Cách này tôi cũng cho học sinh luyện trong các tiết học
để trở thành thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho học sinh kết hợp
về tìm đọc tư liệu sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất .
4. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn tả cảnh
.
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp
các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý, lôgic , chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh
thường rất lúng túng không biết tả cảnh cụ thể là tả cảnh gì? Tả như thế nào?
theo trình tự từ đâu? ... Các em thường sa vào kể lể, liệt kê cảnh một cách
tràn lan, không trội lên được những đặc trưng của cảnh và càng không tạo được
ấn tượng cho người đọc về cảnh. Vậy người giáo viên phải làm như thế nào để
khắc phục khó khăn này. Trước hết, tôi hướng cho học sinh hình dung mỗi một
cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái
quát đến cụ thể. Bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó .
*Ví dụ: khái quát cảnh dòng sông: Dưới chân em là dòng sông hiền hoà chảy như
một tấm lụa trải dài xa tít. Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ
thể theo trình tự từ gần đến xa theo tầm mắt. Ví dụ: mùa này nước sông lưng
chừng nước , nước sông trong xanh in bóng mây trời sâu thẳm. Mái chèo khuấy
động, lăn rung rinh cả những cây tóc tiên dưới đáy. Trên mặt sông điểm xuyết
những lá trúc vàng bé tẻo teo như những chiếc thuyền tí hon dập dềnh trên sóng
nước bao la. Cá nước bơi từng đàn đen trĩu, nhô lên hụp xuống như những người
bơi ếch. Những con sóng lăn tăn như những con rắn vẩy vàng, vẩy bạc đang nô
đùa. Sóng vỗ nhẹ hai bên bờ lóc bóc nghe thật vui tai. Trời chiều, trên sông có
những con thuyền hối hả cập bến, chất đầy cau tươi xoài thơm từ các miền đất lạ
mang về. Tiếng người lao xao trong tiếng hạ buồm cót két bên bờ sông quê ... Trong
quá trình miêu tả cụ thể, giáo viên lưu ý cho học sinh trình tự miêu tả cho phù
hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét, đánh giá và
sự liên tưởng tưởng tượng phong phú, ý câu trước với câu sau lôgic với nhau tạo
độ kết về mặt nghĩa, những câu đoạn cuối thường là những câu có ý nghĩa sâu
sắc, làm đậm nét cho bức tranh thiên nhiên nên giáo viên hướng cho học sinh
biết dành những lời văn trội hơn vào cuối đoạn .Cứ theo cách hướng dẫn như
trên, giáo viên cho học sinh luyện viết thành nhiều đoạn cho nhiều cảnh .
5. Luyện lời văn chuyển cảnh , liên kết
đoạn trong văn tả cảnh
Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng
có tác dụng rất lớn trong việc liên kết , liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình
độ khéo léo của cây bút miêu tả cảnh. Giáo viên cần “ mách nhỏ ” cho các em học
sinh những thủ thuật chuyển cảnh sau đây :
- Các cảnh nhỏ
được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô típ liên cảnh ( cảnh kề gần nhau
theo tầm quan sát). Ví dụ: chỉ một lát con đường đã dẫn ra tới đầu làng . Cây đa...
Giếng đình ...
- Chuyển cảnh nhờ
những hình ảnh trung gian. Ví dụ: “ Bờ đê cao to vạm vỡ. Chân đê cỏ mọc thành
thảm xanh tốt. Trâu bò thung thăng gặm cỏ, vểnh đôi tai nghe tiếng sáo trở về .
ÂAm thanh ấy lúc trầm lúc bổng, hoà nhịp với tiếng chim hoạ mi lảnh lót rắc đều
xuống mặt sông. Con sông quê tôi nằm uốn khúc giữa làng rồi chạy dài bất tận …“
- Hướng chuyển
cảnh theo gam màu. Ví dụ: Sáng nay ra trông thấy màu trời có vàng hơn thường
khi. Màu lúa chín dưới đồng vàng suộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong
vườn lắc lư những quả xoan vàng lịm. Từng chiếc lá mít vàng ối. Buồng chuối đốm
quả chín vàng. Bụi mía vàng xọng, đốt ngầu phấn trắng…
- Chuyển cảnh bằng
cách nối âm thanh với không gian. Ví dụ : Nối âm thanh của sự vật bên bờ sông
với không gian vắng của bến sông ( lấy động làm nổi tĩnh ): Sóng vỗ nhẹ hai bên
bờ lóc bóc nghe thật vui tai. Trên sông giờ đây có những con thuyền hối hả cập
bến, chất đầy cau tươi xoài thơm từ các miền đất lạ mang về . Tiếng người lao
xao trong tiếng hạ buồm cót két bên bờ sông quê. Chiều dần buông, bến sông trở
về vắng lặng. Những con đò nằm im đợi khách qua sông …
- Chuyển cảnh bằng
cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác quan khác nhau : Thính giác, thị
giác, khứu giác, vị giác và bằng cả cảm giác nữa. Ví dụ: Vườn cây lao xao, gió
thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương hoa thơm ngọt lịm. Tiếng chim líu lo
như đem hương thơm ấy bay cao, cao mã. Tu hú kêu trong nắng chiều cho rặng vải
ven sông chín đỏ, cho cái chua bay đi, miền ngọt còn lại. Hẹn một bến sông quê
từng thuyền trái ngọt ra vào… Phương pháp này giáo viên cho học sinh tập viết
kết hợp với học tập tư liệu để có nhiều cách chuyển cuốn hút người đọc .
6. Giáo viên hướng cho học sinh luyện cách
mở bài và kết bài.
a. Trong bài tập
làm văn, phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho người đọc. Các em có thể
vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần phải bám sát vào nội dung, yêu cầu
đã được xác định. Giáo viên đưa ra một số cách mở bài để học sinh luyện theo :
- Cách mở bài hay
thường là gián tiếp: Có thể giới thiệu cảnh bằng lời mời gọi du khách để giới
thiệu cảnh và bộc lộ cảm xúc của người viết một cách khái quát. Có thể dẫn dắt
từ lời thơ, bài hát về cảnh sẽ tả để giới thiệu cảnh.
- Hoặc có thể bộc
lộ cảm xúc hồi tưởng về cảnh để mà giới thiệu. Ví dụ với đề bài : “Hãy tả lại
một đêm trăng sáng vằng vặc”.
- Các em có thể
vào bài một cách tự nhiên : Gần mười giờ đêm, đang ngồi học bài trong nhà, tôi
chợt nghe ai đó kêu lên : Chà, trăng sáng quá! Sáng vằng vặc! Tôi liền đứng
dậy, đẩy cửa bước ra sân. Đúng là trăng sáng đầy trời, đầy sân.
Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng
lưu ý cho học sinh đủ ý cần nêu trong mở bài
b. Kết bài không
những đủ ý chốt của bài viết mà nên tạo được độ lắng trong tâm hồn người đọc.
Ví dụ: Chiều thu quê hương ơi! Hồn tôi như hoá thành tiếng sáo trúc nâng trên
môi chú bé mục đồng và hình như thu đang dạo lên khúc nhạc đồng quê, những
tiếng lao xao rất nhẹ, rất êm. Chiều nay quả là một buổi chiều sâu lắng dìu dịu,
nó sẽ in đậm mãi trong ký ức tuổi thơ tôi.
Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào
trình độ diễn đạt của học sinh, nên giáo viên hướng các em trau dồi thêm tư
liệu tham khảo. Giáo viên cũng nên lưu ý các em, kết bài có thể không nhất
thiết cứ nêu cảm nghĩ mà có thể kết bài theo hướng mở. Kết bài cũng không nhất
thiết phải dài dòng, khoa trương mà có thể chỉ là một câu nhưng ẩn chứa trong
đó tình cảm, tư tưởng của người viết.Ví dụ: Miêu tả vẻ đẹp của làng quê khi
phải rời xa: “ Xin gửi lại nơi chôn rau cắt rốn tình yêu, lời chào và niềm tin
về một ngày mai tươi sáng.”
C. KẾT LUẬN
Có lẽ trong nhà trường không có môn
khoa học nào có thể thay thế môn Văn. Vì thế, niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ
văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là
những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời
văn óng ánh, những nụ cười thiện cảm với môn Văn từ phía học sinh. Để đạt được
những điều vô cùng quí giá đó, mỗi giáo viên chúng ta đâu chỉ có say mê nhiệt
tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất. Ai đó
đã từng nói: “Nghiệp văn là nghiệp khổ“ nhưng tôi thấy mình sung sướng, hạnh
phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Trên đây chỉ là một vài
kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi. Rất mong sự đóng góp chỉ bảo của lãnh đạo
chuyên môn và đồng nghiệp để chuyên đề của tôi được hoàn thiện hơn, có hiệu quả
hơn trong những năm dạy sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người viết
Nguyễn Thị Mỹ Tuyền