Ngày: 09/10/2015
SỰ
TÍCH HỒ GƯƠM
Vào
thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi
hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ,
ở vùng Lam-sơn nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực
còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác, Thấy vậy, đức Long quân
quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc.
Hồi ấy ở Thanh-hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận.
Một đêm nọ. Thận thả lưới ở một bến vắng như thường. Tự nhiên trong một lần kéo
lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi
thò tay bắt cá. Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước
rồi lại thả câu ở một chỗ khác.
Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ
thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông.
Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa
lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên một mình:
- Ha ha! Một lưỡi gươm!
Thận về sau gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam-sơn. Chàng đã mấy
lần vào sinh ra tử ở nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê
Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm
đó chợt sáng quắc lên ở một xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và
nhận ra chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người
đều không biết đó là báu vật.
Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi
người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây
đa. Ông trèo lên mới biết đó là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở
nhà Lê Thận, Lê Lơi rút lấy chuôi gươm giắt vào lưng.
Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận.
Khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại
câu chuyện. Mọi người nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên
ngang đầu nói với chủ tướng:
- Đây là thần có ý phó thác cho "minh công" làm việc
lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo "minh công" và thanh
gươm thần này để báo đền xã tắc!
Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi,
thanh gươm thần tung hoàng trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía.
Chẳng mấy chốc tiếng tăm của quân Lam-sơn lan khắp nơi. Họ không phải trốn
tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như
trước nữa, đã có những kho lương thực của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ.
Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một
tên giặc nào trên đất nước.
Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy
giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh
thành. Nhân dịp đó, Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi
chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên
khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận
thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô
thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói:
- Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân!
Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi
bao. Chỉ một lát thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh
như cắt, rùa há miệng đớp lấy ngang lưỡi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống,
người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dười mặt nước hồ xanh.
Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì
vua liền báo ngay cho họ biết:
- Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc
Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm.
KHẢO DỊ
Người Thượng ở Tây-nguyên truyền khả nhiều về gươm thần. Tựu
trung có bốn truyện có phần nào giống với truyện trên.
1. Trong một chuyến đi chơi xa, Po-thê bị bão đắm thuyền, may
giạt vào một hòn đảo khỏi chết. Trên đảo có một cây sung (ha-ra), thường vẫn có
một đàn lợn từ biển xa đến ăn quả rụng. Đàn lợn đi trên mặt biển dễ dàng nhờ có
một viên đá thần (a-tao) do con lợn chúa đàn ngậm ở mồm. Nhờ có Pơ-tao O-la
(vua Lười) mách cho việc đó. Pô-thê tìm cách chiếm lấy viên đá thần, khi con
lợn chúa đàn đặt đá xuống gốc cây để ăn, Được đá thần, Pô-thê trở về đất liền
gặp một chàng trai có quả cây thần (pô-quy) có thể làm ra mưa gió. Sau đó lại
gặp một người khác có sợi dây (tơ-lây ca-a-san) gọi thì nó trói người và một
cái gậy (a-cai-tha) gọi thì nó đánh người. Lại gặp một người khác có hòn đá
(pôn-rô-tan pôn-rơ-lo) có thể hóa thành ngàn quân và một cái roi mây
(a-tơ-rê-nông) có thể làm cho trời đất mù mịt tối tăm. Pô-thê bèn kết thân với
người ấy.
Sau đó, họ đến bờ một con sông lớn. Ở đây có đủ mặt vua các dân
tộc như: Chàm, Khơ-me (Khmer), Việt-nam, Lào, Ê-đê, Ja-rai (Djarai).v.v... Họ
đang bận lặn xuống nước để mò một thanh gươm thần. Gươm ấy từ trên trời rơi xuống,
đến đâu sáng chói khắp cả bầu trời tới đó. Lúc ấy tuy gươm còn nằm trong vỏ
nhưng mà ánh sáng của nó vẫn sáng rực đáy song. Tuy lặn giỏi, nhưng đáy sông
sâu thành vực, họ chỉ lặn xuống nước được một lúc rồi lại phải lên ngay, vì thế
nhiều người lên tay không. Về sau chỉ có vua nước Chàm chiếm được lưỡi gươm đưa
lên mặt nước.
Nhưng vua Chàm vừa lên tới bờ thì Pô-thê đã nhanh tay cướp lấy
gươm thần trao cho vua Ja-rai. Giữa lúc đó thì vua Khơ-me cũng mò được vỏ gươm
đưa về nước họ. Cuộc mò gươm đến đấy là kết liễu.
Tức mình vì mất gươm, người Chàm bèn gây một cuộc chiến tranh dữ
dội với người Ja-rai bao nhiêu năm tháng. Họ kéo quân đến nước Ja-rai phá làng
mạc, giết người, cướp của. Pô-thê nhờ có hòn đá, quả cây, sợi dây và cái gậy có
phép màu nhiệm chiếm được trong lúc đi đường, nên đủ sức giúp người Ja-rai
chống chọi lại với địch thủ. Nhưng phép thần của người Chàm cũng rất cao cường.
Họ làm cho cuộc chiến tranh ngày càng kịch liệt. Cả hai bên đều chưa phân thắng
bại.
Pô-thê bèn sai giết một con trâu trắng và một con trâu đen làm
lễ cúng lưỡi gươm thần rồi nói: "Hỡi gươm thiêng! Hãy tỏ sự linh dị ra để
theo về với một bên cho dứt khoát!". Đoạn cầm gươm thần vào tay. Pô-thê
xông vào giữa quân Chàm. Lưỡi gươm tự nhiên khi phun ra lửa, khi dâng đầy nước,
làm cho người Chàm hoặc bị chết cháy hoặc bị chết đuối không sao kể xiết.
Pô-thê lại dùng roi làm phép làm cho trời đất tối tăm mù mịt khiến người Chàm
chả biết đường nào mà trốn.
Sau khi trao lưỡi gươm thần cho vua Lửa (Li Pa-tao)[1] Pô-thê ra
đi, không quên dặn người Ja-rai phải luôn luôn kết hiếu với người Khơ-me là kẻ
được trời giao cho nhiệm vụ giữ vỏ gươm thần[2].
2. Truyện thứ hai của người Ja-rai (Djarai):
Có một vị thần ở trên trời xuống trần, ngồi ở một gò đất gần
đường qua lại. Có một gia đình đi qua. Thần nhìn trừng trừng vào một đứa trẻ
làm cho nó khóc mãi, ai dỗ cũng không nín. Bố mẹ đứa bé cầu xin thần làm cho nó
nín. Thần đòi một số sắt, bố mẹ lấy ra cho. Đứa bé quả nín. Một số gia đình
khác đi qua gò, việc cũng diễn ra như vậy. Thế là thần đủ sắt rèn một cây gươm.
Nhưng khi người thợ rèn rèn xong gươm không chịu nguội. Người ấy bèn vứt xuống
sông Xê-xan gần thác Y-a-li.
Ít lâu sau có một người đi câu câu được một con cua, càng cua có
cắp một lưỡi gươm. Khi sắp sửa lấy thì cua thả ra, lưỡi gươm lại rơi xuống
nước. Các làng xa gần nghe tin này đua nhau tới lặn để mò gươm. Một người tìm
được, đó là người Ja-rai. Vỏ gươm do người Việt chiếm (có người nói về tay
người Lào)[3].
Truyện trên dường như là phần đầu của một truyện khác, nội dung
đại lược như sau:
Một lưỡi gươm thần do vua Chàm lặn lấy được từ dưới nước lên,
giao cho vua Ja-rai vì vua Ja-rai là em của vua Chàm. Lưỡi gươm chỉ vào giặc,
giặc tan, chỉ vào lụt, lụt cạn, chỉ vào trời hạn thì tự dưng có mưa. Trừ vua
Lửa ra, người nào nhìn vào gươm cũng sẽ bị tan xương nát thịt. Cây gươm thần
được lưu truyền mãi và đã nhiều lần cứu vớt người Ja-rai ra khỏi vùng thiên tai
nhân họa cho tới đời ông Tú, một trong những vua Lửa. Trong khi ông đưa gươm ra
chống giặc thì bất tình lình lưỡi gươm tự lìa khỏi chuôi và văng xuống sông.
Lưỡi gươm trôi về miền xuôi, người Việt giữ được. Giữa lúc đó thì giặc xâm lăng
tới. Không có gươm thần, người Ja-lai đành chịu làm tôi cho giặc[4].
3. Truyện thứ ba của người Ba-na (Bahnar):
Dô-dăm Xết bị quỷ Hơ-manh bắt mất vợ và em gái, chưa biết làm
thế nào để báo thù, Một hôm, anh lên rừng bỗng thấy trên cây cao có ánh sáng lạ
lấp lánh: đó là một cây gươm và một cái khiên bằng vàng. Nhưng khi anh giơ tay
lấy những vật trên thì không thể nào nhấc ra khỏi cây được. Theo lời những
người già, anh giết dê làm lễ cúng, thần mới cho gươm và khiên. Khi cầm vào tay
múa, chiếc khiên bỗng bay vụt lơ lửng giữa không trung, anh nhảy ngay lên
khiên, khiên bay lên vùn vụt, sau đó nó đưa anh lên tận sông Ngân-hà đánh nhau
với quỷ Hơ-manh. Cuối cùng anh giết chết quỷ cứu được em và vợ về[5].
4. Truyện thứ tư của người Mơ-nông (Menon) là một dị bản của
truyện Tiêu diệt mãng xà (xem truyện 148, tập IV)
Xưa ở vùng người Mơ-nông có hai anh em tên là Pơ-rang và Dang.
Một hôm Dang tìm được một hòn đá thiêng có thể ném chết bất cứ con vật gì. Thuở
ấy có một con rồng thường hại người, buộc dân trong vùng phải đến kỳ nộp một
mạng người mới không quấy nhiễu. Lần ấy đến lượt con gái vua là Nê-ang Pu phải
nộp mạng. Nhưng Dang đã dùng hòn đá rèn thành gươm giết được rồng. Lập công
xong anh dặn Nê-ang Pu đừng nói với ai rồi trốn về nhà song lại bỏ quên bao
gươm lại. Tìm không ra dũng sĩ giết rồng, vua ra lệnh đem so gươm của mọi
người, gươm ai bỏ vừa lọt cái bao do dũng sĩ để lại thì coi như người ấy là dũng
sĩ. Không có gươm của ai vừa bao cả. Khi lính tìm đến nhà Dang, cả 200 người hè
vào khiêng gươm của anh mà không nổi. Dang chỉ một tay cầm gươm lên như bỡn.
gươm bỏ vừa bao. Dang được vua gả con gái, sau đó được làm vua. Bị các nước kéo
nhau đến đánh. Dang thua, đi trốn, bỏ vỏ gươm ở nước người Khơ-me, cán ở
Thái-lan, lưỡi ở người Ja-rai[6].
Đồng bào người Cham-pa cũng có một truyện cổ tích về lịch sử
gươm thần. Truyện này được ghi chép từ thế kỷ III.
Phạm Văn nguyên là nô lệ chăn súc vật của một viên súy huyện
Tây- quyền thuộc Nhật-nam. Một hôm đưa dê đi uống nước ở khe. Văn bắt được hai
con cá chép mang về định nấu ăn. Lúc sắp sửa nấu thì cá bỗng hóa thành đá nảy
ra ánh sáng kỳ lạ. Văn mang đến thợ rèn, rèn thành gươm. Được gươm rồi, chàng
đến trước một tảng đá khấn rằng: "Nếu chặt vỡ được tảng đá này thì ta sẽ
làm vua". Tảng đá quả vỡ đôi trước nhát chém của cây gươm thần.
Rồi đó Văn xin đăng linh. Trận nào chàng cũng tỏ ra rất gan dạ
và giết được nhiều giặc. Dần dần Văn được thăng chức và cuối cùng cướp ngôi
Phạm Dật, làm vua nước Lâm-ấp. Chàng lại cử binh đánh các lân bang, mở rộng đất
đai thành một nước lớn[7].
Truyện của người In-đô-nê-xi-a dưới đây cũng một mô-típ với các
truyện trên, nhất là giống với truyện đầu của các vật ngẫu nhiên tìm được và
lưỡi gươm thần:
Xưa ở In-đô-nê-xi-a mỗi một hòn đảo là một vương quốc.
Một ông vua muốn làm bá chủ, nghe nói hễ ai bắt được một con
ngựa thần thì nó sẽ cho ngọc và nhờ đó có phép đi được trên mặt biển, bèn sai
hoàng tử và mười võ sĩ vượt biển đi tìm. Hồi ấy có một chàng trai trẻ tuổi một
hôm câu được một con cá xanh biếc bé bằng ngón tay. Cá hứa sẽ chỉ cho nơi có
gươm thần vô địch và tặng cho ba vật lạ để được tha: một sợi dây có phép trói
người, một cây gậy có phép đánh người nếu đọc lên câu chú, một cái nón nếu đội
lên đầu thì trời tối sầm lại. Nhờ sợi dây, anh bắt được ngựa thần theo mình và
bảo nó nhả ngọc quý. Ngựa còn mách cho anh có ba vật quý khác: 1. dưới đáy sông
ở kinh đô một nước lớn nhất có một lưỡi gươm; 2. trên đỉnh núi cao nhất ở nước
lớn thứ nhì có một chuôi gươm; 3. giữa cánh rừng rậm ở nước lớn thứ ba có một
vỏ gươm. Ba vật ấy để rời nhau thì không có gì lạ, nhưng lắp vào với nhau thì
trở thành một sức mạnh vô địch.
Khi thuyền của hoàng tử và 10 võ sĩ vượt biển đến, anh chàng sai
sợi dây trói hoàng tử lại, rồi tha cho bọn võ sĩ, bảo hãy trở về nước lặn lấy
lưỡi gươm đưa đến sẽ trả hoàng tử. Bọn họ mang gươm đến cho anh. Anh tìm đến
nước thứ hai và lúc một con quỷ xông ra và bị anh thần phục. Anh bảo quỷ tùm
cho mình chuôi gươm. Tìm được rồi, quỷ toan ăn thịt anh nhưng đã bị gậy thần
đánh cho chết. Đến nước thứ ba, để lọt được vào khu rừng cấm có lính canh, anh
đội nón cho trời tối mịt mùng, cuối cùng anh cũng tìm ra được vỏ gươm. Lắp cả
ba thứ lại thì vừa như in.
Đến đây anh gặp tên vua hiếu chiến nó bắt anh dẫn đường đi chinh
phục các nước. Anh gọi dây trói toàn bộ quân sĩ của vua lại, rồi bảo gậy đánh,
lại đội nón làm cho trời tối mù mịt tối tăm. Vua cả sợ xin tha tội, anh bảo
quân sĩ của hắn vứt cha con hắn xuống biển rồi lên làm vua. Ông vua mới cho mời
vua của tất cả các vương quốc khác đến kết nghĩa, đem chia lưỡi, chuôi và vỏ
gươm thần cho ba nước khác nhau, dặn họ bao giờ có giặc ngoài đến xâm lược thì
đem ba thức lắp làm một, rồi cứ một người trong ba nước thống lĩnh cầm quân đi
đánh.
Ngày nay không ai rõ ba thứ ấy ở đâu cả, nhưng nước
In-đô-nê-xi-a thì không ai chia cắt được[8].
Tóm lại truyện cổ tích nói về gươm thần liên quan đến việc bảo
vệ đất nước dường như là một đề tài khá phổ biến của một loại hình tự sự dân
gian ở một số dân tộc ở vùng Đông Nam Á.