Toàn soạn giới thiệu phần 2 cuộc trao đổi.
PV: Cá nhân ông là người tích cực tham gia phản biện các chính sách giáo dục, theo ông việc phản biện nên như thế nào cho phù hợp?
Ông Phạm Hiệp: Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phản biện ở đây chính là hoạt động “dân bàn”. Các nhà làm chính sách “khôn ngoan” là những người biết lắng nghe và sử dụng phản biện từ xã hội.
Đổi mới thành công thường bắt nguồn từ...dưới lên |
Tất nhiên, người phản biện cũng cần phản biện một cách sòng phẳng. Ví dụ như khi Bộ đưa ra một chính sách mới xin ý kiến, thì người phản biện cần ít nhất là đọc hết văn bản của Bộ rồi hãy phản biện.
Tuy vậy, ở đây tôi muốn nhấn mạnh một ý khác về khó khăn ở Việt Nam trong việc phản biện. Đó là tình trạng thiếu dữ liệu nghiêm trọng. Điều này không chỉ là vấn đề đối với ngành giáo dục mà còn với mọi ngành.
Thiếu dữ liệu tin cậy và chính xác khiến chúng ta rất khó phản biện. Mọi nhận định đưa ra hoàn toàn chỉ là các ý kiến mang tính chất định tính, dựa trên kinh nghiệm, quan sát của cá nhân từng người mà không có “thước chung” để đối sánh. Phản biện thiếu dữ liệu chả khác gì “thầy bói xem voi”.
Đây phải chăng chính là lý do trong thời gian qua ông và các cộng sự thường thống kê những số liệu liên quan tới giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học?
Ông Phạm Hiệp: Chính xác. Tôi xác định rằng khi không có dữ liệu có sẵn thì tự mình tạo ra dữ liệu vậy. Trong hầu hết các bài viết phản biện gần đây, tôi luôn cố gắng kết hợp dành công sức xây dựng dữ liệu để minh hoạ cho phần nhận định của mình.
Từ tháng 10 năm ngoái, tôi và 2 cộng sự khác đang làm một dự án khá dài hơi hơn có tên gọi Scientometrics for Vietnam (Trắc lượng khoa học Việt Nam) có mục tiêu bạch hoá các kết quả nghiên cứu khoa học của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.
Kết quả của dự án này như thế nào thưa ông?
Ông Phạm Hiệp: Dự án bước đầu được cộng đồng khoa học, nhất là cộng đồng các nhà khoc học trẻ đón nhận khá hào hứng. Kết quả bước đầu cũng khá thú vị.
Ví dụ như trong 5 năm qua, ngành toán học của Việt Nam đã vượt qua Singapore để trở thành nước có số lượng công bố trên các tạp chí ISI số 1 Đông Nam Á. Còn nếu tính tất cả các ngành thì chúng ta xếp thứ 4, sau Singapore, Thái Lan và Malaysia.
Trở lại câu chuyện nhìn nhận vấn đề cải cách giáo dục từ cấp cơ sở, ông quan sát ở Việt Nam và một số nước phương tây khi họ tham gia cải cách thì có các trường phái hay có nhiều cách đi nào?