Công văn 4068 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Phùng Xuân Nhạ chỉ đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc áp dụng mô hình trường học mới và các phương pháp dạy học mới ở trường phổ thông sau khi kết thúc Dự án VNEN đang thu hút sự quan tâm từ dư luận.
Theo tôi, công văn này thể hiện sự đánh giá đúng mức, toàn diện của Bộ GDĐT cũng như cá nhân Bộ trưởng về ưu điểm và hạn chế của việc áp dụng mô hình VNEN thời gian qua, trong đó những hạn chế được nêu khá kỹ.
Điều này không chỉ cho thấy việc áp dụng mô hình VNEN “đã được Bộ GDĐT nghiêm túc rút kinh nghiệm” như khẳng định trong công văn, mà còn thể hiện thái độ cầu thị của Bộ GDĐT cũng như tân Bộ trưởng.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, ảnh do tác giả cung cấp. |
Đáng chú ý là công văn 4068 đã đưa ra 3 ý kiến chỉ đạo đối với các địa phương về việc tiếp tục mô hình VNEN ở những trường đang thí điểm, lựa chọn một số thành tố tích cực của mô hình VNEN để bổ sung vào việc đổi mới phương thức giáo dục trong toàn ngành, và tiếp tục chủ động nghiên cứu áp dụng các mô hình giáo dục tiên tiến khác phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Đó là những ý kiến chỉ đạo đúng đắn, có tính hệ thống và sát với thực tiễn.
Tiếp tục hay chấm dứt VNEN do cơ sở giáo dục tự quyết
Quan điểm của tân Bộ trưởng trong công văn là Bộ GDĐT khuyến khích các cơ sở giáo dục đang triển khai mô hình trường học mới tiếp tục triển khai trên cơ sở tự nguyện, đảm bảo đạt hiệu quả thiết thực và duy trì trong suốt cấp học vì quyền lợi của học sinh.
Điều này trước hết có nghĩa là Bộ không chủ trương mở rộng số trường thí điểm VNEN. Theo tôi, đây là quyết định đúng vì VNEN là mô hình thí điểm, cần gói gọn trong phạm vi nhất định để nghiên cứu, đo lường tỉ mỉ mới có thể rút ra được đánh giá chính xác.
Cũng theo quan điểm này, Bộ không yêu cầu tất cả các trường đã dạy VNEN phải tiếp tục mô hình này, mà để mỗi trường quyết định trên cơ sở tự nguyện, đảm bảo hiệu quả và quyền lợi của học sinh.
Trong giáo dục, đảm bảo quyền lợi của học sinh là yêu cầu cao nhất. Nếu các trường thấy mô hình này có hiệu quả, đương nhiên họ sẽ tiếp tục thực hiện.
Nhưng giả sử một số trường gặp khó khăn trong áp dụng mô hình VNEN không tiếp tục mô hình này nữa thì cũng không ảnh hưởng đến học sinh vì nội dung sách VNEN hoàn toàn dựa trên SGK hiện hành.
Trong quá trình tiếp tục áp dụng VNEN sắp tới, cơ quan quản lý và các cơ sở giáo dục cũng cần quan tâm khắc phục những hạn chế mà công văn 4068 đã nêu ra.
Khai thác các giá trị tích cực của VNEN
Mô hình VNEN đã triển khai hơn 3 năm và sẽ còn được tiếp tục thực hiện ở hàng nghìn trường (tiểu học, trung học cơ sở) cho đến khi có chương trình, SGK mới.
Mặc dù căn cứ văn bản ký kết giữa Bộ GDĐT với các nhà tài trợ thì Dự án VNEN đã kết thúc, nhưng các cơ quan chuyên môn của Bộ cũng cần tiếp tục nghiên cứu để chọn lọc những điểm ưu việt về phương pháp dạy học của mô hình này, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới giáo dục.
Tôi tin rằng đây mới là mục tiêu mà Dự án VNEN hướng tới.