Thứ tư, 18/06/2025 17:13:10
Bản đồ tư duy được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong khuôn khổ bài này, người viết chỉ đề cập đến Ứng dụng Bản đồ tư duy trong một số hoạt động ở trường Trung học cơ sở Nguyễn Đức Cảnh, Thái Thụy, Thái Bình.
1. Trong công tác chủ nhiệm lớp
Với đặc thù riêng của nhà trường: Học sinh đa phần là học sinh giỏi trên địa bàn của toàn huyện, lại rất nhiều HS bán trú và nội trú, nên công tác chủ nhiệm có những đặc điểm và yêu cầu không giống với công tác chủ nhiệm của các trường THCS khác. Vì vậy, lập kế hoạch chủ nhiệm bằng việc sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp GV chủ nhiệm có cái nhìn tổng quát hơn toàn bộ kế hoạch, từ chỉ tiêu, phương hướng, biện pháp...Từ đó dễ theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung thêm các chỉ tiêu, biện pháp.... một cách dễ dàng, hợp lí hơn rất nhiều so với cách ghi chép bằng văn bản thông thường.
Ở mỗi nội dung của kế hoạch, GVCN có thể chỉnh sửa, bổ sung; và với những ghi nhớ dài cho mỗi nội dung, GV có thể dùng công cụ “Add Text Note” để ghi chú, khi cần, chỉ việc kích chuột vào “ghi chú” nội dung sẽ hiện ra.
2. Trong hoạt dộng dạy - học.
a. Với giáo viên: Cũng vì đặc thù riêng của trường đối tượng là HS khá và giỏi, nên GV không chỉ đơn thuần dạy bài mới và luyện tập kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, mà bên cạnh đó, GV phải thường xuyên cung cấp cho HS các kiến thức bổ trợ, kiến thức mở rộng và nâng cao sau mỗi bài học hay sau một mảng kiến thức, một chương thông qua các chuyên đề. Và bản đồ tư duy chính là công cụ, là phương tiện hỗ trợ đắc lực, giúp GV diễn giải và truyền đạt vấn đề thật dễ dàng, do đó đạt kết quả rất tốt trong giảng dạy. Bản đồ tư duy có thể dùng trong dạy bài mới, kiểm tra bài cũ, trong hoạt động nhóm, trong luyện tập thực hành, ôn tập chương hay chuyên đề, GV sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng và ngày càng được bổ sung thêm về nội dung, làm giàu thêm “kho tư liệu”.
Chẳng hạn, kiểm tra bài “Hình thoi” - Toán 8, thay bằng các câu hỏi bắt HS phải đứng trả lời, HS dưới lớp khó theo dõi đầy đủ chính xác, GV có thể yêu cầu HS điền vào bản đồ tư duy sau:
Với cách làm này, cả GV và HS dưới lớp đều nhận xét tường minh được mức độ nắm bắt và ghi nhớ kiến thức của HS đó, đồng thời có thể dễ dàng chỉnh sửa những chỗ chưa chính xác, quan trọng hơn, cả lớp còn như được cùng “ôn bài” một lượt.
b. Với học sinh: Được học tập trong ngôi trường Chất lượng cao là niềm tự hào của học sinh nhưng cũng đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi em là rất lớn. Nhà trường không chỉ ưu tiên đào tạo mũi nhọn mà chú trọng nâng cao chất lượng toàn diện ở tất cả các môn học để tránh học lệch, để học sinh trong các đội tuyển HSG môn Sử, môn Địa vẫn có thể đỗ vào Ban A của các trường THPT. Vì vậy khi nhà trường triển khai tới các em chuyên đề “Sử dụng bản đồ tư duy trong học tập” được các em rất thích thú và đón nhận hào hứng vì BĐTD đã giúp các em có thêm sự thư giãn, phấn khích, huy động tối đa khả năng tư duy và sáng tạo tích cực trong học tập, làm tăng ở các em tính độc lập, chủ động sáng tạo và phát triển tư duy lô gíc, giúp các em nắm được kiến thức nhanh, ghi nhớ, tổng hợp, ôn tập hữu hiệu với mọi môn học thông qua những sơ đồ thể hiện liên kết chặt chẽ của tri thức. Sau một tháng triển khai chuyên đề, nhiều em đã phản ánh BĐTD giúp các em chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng lại rất hiệu quả.
Bản đồ tư duy về Hình vuông:
Như vậy trong trí nhớ của HS, không phải là những trang giấy kín mít và dày đặc những dòng chữ, mà là một bức tranh rất đẹp, rất tổng quát về Văn học Việt Nam. Ở mỗi chi tiết của bức tranh, HS dễ dàng liên tưởng đến những nội dung và những những ví dụ sinh động kèm theo...
Hay khi học xong bài mới “Tình bạn trong sáng lành mạnh” - Giáo dục công dân 6 - HS có thể tự lập cho mình một sơ đồ ghi nhớ kiến thức như sau:
Vận dụng bản đồ tư duy vào dạy học, GV và HS cùng làm việc tập thể một cách tích cực, sáng tạo, huy động cùng một lúc nhiều kiến thức, kết hợp việc ghi chép với kênh chữ, kênh hình theo cách riêng của từng người, không dập khuôn máy móc, dễ phát triển ý tưởng bằng cách vẽ thêm nhánh, sau mỗi bài học, GV và HS cùng có thêm niềm vui, niềm phấn khởi vì tự mình làm ra “sản phẩm trí tuệ”.
Có thể áp dụng “ Học bằng BĐTD” rất đa dạng, dùng để hệ thống hoá kiến thức của một bài học, một chuyên đề, hay một chương. Dùng để tóm lược nội dung một cuốn sách, lập kế hoạch học tập, lập kế hoạch cho một công việc nào đó, thậm chí lập kế hoạch cho bản thân trong tương lai.
Chuyên đề “ Dạy - học với Bản đồ tư duy” được triển khai tóm lược bằng bản đồ tư duy sau:
Qua thực tế, sau khi triển khai chuyên đề bản đồ tư duy ở trường THCS Nguyễn Đức Cảnh - Thái Thuỵ - Thái Bình, giáo viên và học sinh đều rất hào hứng sử dụng phương pháp dạy học mới này. GV thấy rằng nhiều nội dung kiến thức được diễn đạt và truyền thụ dễ dàng hơn, cụ thể và sinh động hơn, kích thích HS hứng thú say sưa học tập, bài dạy dạt hiệu quả cao hơn. HS thừa nhận có cách ghi nhớ nhanh, tổng quát và toàn diện hơn với tất cả các môn học, đặc biệt dễ học bài với một số môn xã hội. Vì vậy, sau 2 năm triển khai chuyên đề “ Dạy- Học với bản đồ tư duy” đã có rất nhiều sản phẩm Bản đồ tư duy độc đáo, ấn tượng của nhiều thầy cô và các em học sinh, được đánh giá cao trong các cuộc thi cấp cụm, cấp huyện về Ứng dụng Bản đồ tư duy do Phòng GD- ĐT tổ chức.
Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD:
Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV là người hướng dẫn, là cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
Hoạt động 5: Rút ra nhận xét khái quát về xây dựng BĐTD, gợi mở những cách xấy dựng BĐTD khác…
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng Bản đồ tư duy không phải là công cụ ghi chép vạn năng cho mọi bài học, không vận dụng trong mọi công đoạn, mọi quá trình nhận thức. Trong môn ngữ văn, bản đồ tư duy không tái hiện được cảm xúc trong mỗi trang viết, không chuyển tải hết sự tinh tuý trong cách dùng từ, đặt câu, trong nghệ thuật cấu trúc tác phẩm.
Do vậy, khi sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học, GV và HS phải lưu ý tránh hiện tượng “hội chứng bản đồ tư duy” và chú ý đến yếu tố “linh hoạt” và “phù hợp” sao cho phát huy tối đa tác dụng của Bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác.