


Bí quyết chọn trường mầm non cho con(2014-09-23)

hoạt động ngoại khóa(2014-09-23)

Thầy ngày càng sợ… trò!(2014-09-23)


- Khách đang xem :
- Hôm nay :
- Hôm qua:
- Tuần này:
- Tháng này:
- Tháng trước:
- Tổng truy cập:

Tăng cường thực hiện nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT vừa ban hành Chỉ thị về việc tăng cường triển khai thực hiện nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chỉ thị được ban hành nhằm mục đích giải quyết các vấn đề bất cập trong quá trình thực hiện Đề án.
Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020 đã được triển khai gần 4 năm. Tính đến hết năm học 2013 - 2014 đã có 11 Bộ, ngành, cơ quan ngang Bộ và 44 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập Ban chỉ đạo; 53 tỉnh, thành phố có kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Đề án (trong đó có 11 Bộ, ngành, cơ quan ngang Bộ, 45 tỉnh, thành phố có kế hoạch được phê duyệt).
Bộ GD-ĐT cho biết, công tác bồi dưỡng giáo viên, giảng viên ngoại ngữ ở trong nước và ngoài nước đã được quan tâm ở hầu hết các Bộ, ngành, địa phương; bước đầu đổi mới chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và thi, kiểm tra đánh giá năng lực ngoại ngữ theo hướng hình thành năng lực sử dụng ngoại ngữ trong môi trường giao tiếp đa văn hóa, đa ngôn ngữ; quan tâm bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ngoại ngữ theo hướng hiện đại bằng các nguồn vốn của trung ương và địa phương, khai thác các nguồn học liệu nước ngoài, đặc biệt là qua internet để phục vụ dạy và học ngoại ngữ.
Tuy vậy, việc triển khai các nhiệm vụ của Đề án và Chương trình còn chậm và bộc lộ một số hạn chế, bất cập: Hoạt động chỉ đạo của nhiều Ban Chỉ đạo Đề án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa hiệu quả, chưa có sự phối hợp tốt giữa các sở, ban ngành; Công tác lập kế hoạch, tổng kết, báo cáo kết quả triển khai thực hiện Đề án còn chậm. Trong nhiều bản kế hoạch, mục tiêu chưa cụ thể, thiếu các chỉ số hoạt động rõ ràng dẫn đến khó khăn trong phối hợp và đánh giá hiệu quả; Việc rà soát, đánh giá năng lực ngoại ngữ đội ngũ giáo viên tiếng Anh phổ thông thiếu tính chuyên nghiệp.
Phương thức bồi dưỡng nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên ngoại ngữ phổ thông chưa phù hợp với thực tế và điều kiện dạy học của giáo viên; Còn lạm dụng việc tổ chức bồi dưỡng theo hình thức vừa làm vừa học, không giám sát chặt chẽ việc đánh giá kết quả bồi dưỡng, dẫn đến chất lượng bồi dưỡng giáo viên chưa đạt yêu cầu.
Tại nhiều địa phương, việc phân bổ kinh phí không cân đối giữa các hạng mục chi; chi quá nhiều cho thiết bị; mua sắm không dựa trên đánh giá nhu cầu thực tế, không xem xét khả năng có thể khai thác tốt tại địa phương, đơn vị, vì vậy thiếu hiệu quả, không đồng bộ, lãng phí. Công tác thông tin và truyền thông chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của các cấp quản lý và cộng đồng.
5 nhiệm vụ trọng tâm để giải quyết bất cập
Để giải quyết những bất cập nêu trên, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT yêu cầu Ban chỉ đạo Đề án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ban chỉ đạo Đề án các Bộ, ngành, cơ quan ngang Bộ, các sở giáo dục và đào tạo, các nhà trường ở các cấp học và trình độ đào tạo tập trung thực hiện năm nhiệm vụ trọng tâm.
Cụ thể,tăng cường công tác quản lý, giám sát thực hiện nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ, đánh giá hiệu quả các hoạt động Đề án. Điều này được thể hiện qua việc gắn công tác triển khai thực hiện nhiệm vụ của Đề án và Chương trình với việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục; đảm bảo các điều kiện thực hiện nhiệm vụ, nhất là điều kiện đội ngũ giáo viên, giảng viên ngoại ngữ; xác định đổi mới dạy học ngoại ngữ nhằm giúp giáo viên, giảng viên, và người học sử dụng được ngoại ngữ là một trong những khâu đột phá để hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng giáo dục.
Rà soát kỹ tiến độ, kết quả thực hiện các nhiệm vụ của Đề án và Chương trình để có kế hoạch tiếp tục thực hiện, trong đó chú ý kết quả về đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ của người học…
Hoàn thành công tác rà soát, đánh giá và bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ của giáo viên Hoàn thành công tác rà soát, đánh giá năng lực ngoại ngữ của giáo viên, giảng viên ngoại ngữ các cấp học và trình độ đào tạo. Trên cơ sở đó, xác định mục tiêu bồi dưỡng đạt chuẩn và nâng chuẩn năng lực ngoại ngữ phù hợp với từng giai đoạn và điều kiện thực tế của từng địa phương, trường học; lập kế hoạch bồi dưỡng giáo viên, giảng viên theo hướng ưu tiên giáo viên, giảng viên cận chuẩn, đảm bảo chất lượng, hiệu quả, tránh áp đặt và yêu cầu đồng loạt. Gắn mục tiêu bồi dưỡng năng lực sử dụng ngoại ngữ của người dạy với năng lực đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá và tổ chức các hoạt động dạy và học ngoại ngữ ở các cấp học và trình độ đào tạo.
Khuyến khích, hỗ trợ giáo viên, giảng viên tự chủ trong bồi dưỡng thông qua việc tự đăng ký kế hoạch bồi dưỡng để đạt chuẩn: thời gian tự bồi dưỡng để đạt chuẩn, bài thi sẽ sử dụng và cơ sở đánh giá (trong số các cơ sở đánh giá và bài thi được công nhận). Đa dạng hóa nguồn lực, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, giảng viên, tình nguyện viên nước ngoài đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định tham gia vào quá trình dạy học ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, chuyên gia về giảng dạy, kiểm tra đánh giá năng lực ngoại ngữ trong nước; tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị và Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc huy động, sử dụng đội ngũ giảng viên, tình nguyện viên nước ngoài và lựa chọn nội dung giảng dạy, bồi dưỡng, đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Đổi mới phương thức thi, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam:Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện ngân hàng đề thi quốc gia; khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ biên soạn câu hỏi thi, đội ngũ giám khảo phục vụ đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá năng lực ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thành lập và đưa Trung tâm đánh giá năng lực ngoại ngữ quốc gia vào hoạt động. Từng bước hình thành mạng lưới cơ sở tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá, công nhận năng lực ngoại ngữ; thống nhất quản lý chặt chẽ việc in ấn, cấp phát, sử dụng chứng chỉ ngoại ngữ quốc gia theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Trước mắt có thể liên kết với các tổ chức khảo thí nước ngoài có uy tín để áp dụng các giải pháp tiên tiến về kiểm tra, đánh giá, công nhận năng lực ngoại ngữ của người dạy và người học Xây dựng và ban hành cơ chế quản lý, thanh tra, giám sát độc lập hoạt động của các cơ sở tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá, công nhận năng lực ngoại ngữ. Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở này.
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học thiết yếu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đổi mới dạy học ngoại ngữ; tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giao lưu trong nước và quốc tế nhằm tạo môi trường học tập và sử dụng ngoại ngữ bền vững: Xây dựng tiêu chí đánh giá, lựa chọn thiết bị, các chương trình học trực tuyến, các nguồn học liệu mở phù hợp với yêu cầu đổi mới dạy học ngoại ngữ nhằm đảm bảo hiệu quả, tránh lãng phí; đảm bảo tính đồng bộ của thiết bị và các học liệu khác, tận dụng tối đa các thiết bị hiện có; tập huấn người dạy và người học biết sử dụng; thống nhất lựa chọn phần mềm quản lý, dạy và học ngoại ngữ dùng chung cho toàn hệ thống và có tính đến đặc thù của cấp học. Tận dụng các nguồn học liệu về dạy và học ngoại ngữ như sách giáo khoa, tài liệu dạy và học, phần mềm đã được phát triển bởi các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nướccó uy tín. Đẩy mạnh các hoạt động huy động các nguồn lực xã hội, các sáng kiến hỗ trợ thực hiện Đề án. Tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giao lưu trong nước và quốc tế, hình thành môi trường học và thực hành, sử dụng ngoại ngữ sâu rộng trong cộng đồng.
Tổng kết, phổ biến kinh nghiệm xây dựng đơn vị điển hình về đổi mới dạy và học ngoại ngữ:Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị; lựa chọn những đơn vị tiêu biểu để phổ biến, nhân rộng điển hình; có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 4313 | Phản hồi : | Chuyên mục :

Yêu sao hai tiếng “phụ huynh”
Có thể với một vài người, họp phụ huynh là cuộc họp tẻ nhạt, chỉ liên quan đến các khoản tiền đóng góp, nhưng với mẹ - người lần đầu là phụ huynh, mẹ có cảm xúc rất khác...
Buổi chiềuđến lớp đón con, mẹ được các cô thông báo ngày mai nhà trường sẽ tổ chức họp phụ huynh, gia đình sắp xếp thời gian để tham dự.Trên đường về, mẹ cứ lâng lâng xao xuyến rồi tủm tỉm cười hạnh phúc. Còn con thì cứ rối rít nhắc đi nhắc lại về lịch họp phụ huynh ngày mai như thế sợ bố mẹ quên mất.
Mẹ quên làm sao được khi lần đầu tiên - nhờ con mà mẹ được gọi là phụ huynh. Về đến nhà, mẹ khoe với bố bằng giọng rất tự hào:
-Nhà trường có thông báo ngày mai tổ chức họp phụ huynh, anh hay em sẽ đi họp cho con?
Bố cũng thoáng ngỡ ngàng, có lẽ là do lần đầu tiên bố được gọi là phụ huynh, với nét mặt tươi rói bố bảo:
- Chà, chúng mình đã thành phụ huynh “xịn” rồi cơ à? Thôi, bố nhường cho mẹ vinh dự lần đầu đi họp phụ huynh cho con đấy.
Hai từ “phụ huynh” cứ vấn vít trong đầu làm mẹ bâng khuâng. Mẹ ngẫm thấy thời gian trôi nhanh thật: Nhớ ngày nào, mẹ vẫn còn là học sinh, mỗi lần nhà trường họp phụ huynh mẹ cũng giống như con hôm nay, đôn đốc ông bà ghê lắm vì mẹ cũng chỉ sợ ông bà bận nhiều việc rồi quên. Thật may là chuyện ấy chẳng bao giờ xảy ra, phần vì ông bà luôn quan tâm đến việc học tập của con cái, phần vì mẹ luôn là người chu đáo trong việc đôn đốc như con. Mẹ tự nhủ, bố mẹ cũng sẽ học tập ông bà, sẽ không bỏ bất kỳ cuộc họp phụ huynh nào vì đó cũng là cuộc họp liên quan đến việc học tập của con.
Cảm giác lần đầu trở thành phụ huynh thật đặc biệt con ạ, mẹ vừa thấy tự hào vừa có chút lo lắng đan xen. Vậy là từ đây mẹ đã có thêm những trách nhiệm mới vô cùng lớn lao. Sự trưởng thành của con ngoài hai nhân tố gia đình, xã hội nay đã có thêm nhân tố mới: nhà trường. Sự phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường sẽ là yếu tố quan trọng giúp con phát triển toàn diện. Mặc dù con của mẹ mới là học sinh bậc mầm non nhưng không phải vì thế mà coi nhẹ được, bởi mẹ quan niệm: Muốn cây phát triển tốt thì phải chăm sóc tốt từ khi nó mới là cái mầm non đang nhú. Mẹ thầm cảm ơn con đã đến với bố mẹ và trao cho bố mẹ một vị trí, vai trò mới - phụ huynh.
Sáng hôm sau, mẹ dậy sớm, sắp xếp việc nhà rồi chuẩn bị tâm thế để đến trường họp phụ huynh cho con. Đi ngang chợ, ai cũng hỏi han vì hình như các bác tuy không phải là phụ huynh trực tiếp thì cũng là bà đang có cháu nội, ngoại ở độ tuổi như con. Các bác thấy được sự háo hức của mẹ - người lần đầu được gọi là phụ huynh, ai cũng chúc mừng mẹ, rồi chúc con học giỏi làm mẹ vui sướng không giấu được nụ cười.
Đấy, lần đầu đi họp phụ huynh của mẹ vui tươi thế đấy. Mong rằng, những lần đi họp phụ huynh tiếp theo, mẹ sẽ vẫn tươi vui như thế vì các cô nhận xét con của mẹ ngoan, học tập tốt, ý thức tốt. Cũng như nhiều phụ huynh khác, mẹ cũng đặt nhiều hi vọng vào con - của để dành của mẹ. Mẹ mong con đi học ngoan ngoãn, vâng lời thầy cô, chan hòa với bạn bè, tiếp thu tốt các kiến thức, kỹ năng mà thầy cô truyền dạy. Mẹ hứa với con yêu, “phụ huynh” mẹ luôn luôn sẵn sàng về mọi mặt để đồng hành cùng con đi suốt cuộc đời.
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 3644 | Phản hồi : | Chuyên mục :

Phần Lan: Tuyệt đối tin trẻ
Trong vòng 20 năm, nền giáo dục Phần Lan tạo ra một cuộc 'đại nhảy vọt' thúc đẩy kinh tế phát triển, trở thành một trong những hình mẫu tham khảo của thế giới. Triết lý giáo dục Phần Lan: Lòng tin-Bình đẳng-Hợp tác. Họ nêu cao phương châm dạy để học chứ không đề cao thi cử...
Trong quyển sách“Thế giới có thể học hỏi điều gì từ nền giáo dục Phần Lan”,GS Pasi Sahlberg, nhà giáo dục nổi tiếng, Tổng Giám đốc Trung tâm Luân chuyển và Hợp tác quốc tế Phần Lan, đã chỉ ra rằng giáo dục Phần Lan dựa trên triết lý niềm tin - yếu tố tạo ra chính sách, phương pháp dạy học rất đặc trưng.
Tin mỗi trẻ em đều có khả năng riêng
Triết lý cơ bản của nền giáo dục Phần Lan là niềm tin vào khả năng của con người. Những người làm chính sách giáo dục của Phần Lan tin rằng bất kỳ ai cũng mang trong mình những giá trị có thể đóng góp cho xã hội. Mục đích của giáo dục, không phải là đưa con người vào một khung khổ, mà là giúp học viên phát hiện và phát huy tố chất vốn có của bản thân. Do đó trường học là nơi rất bình đẳng, mọi học sinh đều hưởng những cơ hội ngang nhau, để trẻ tự do phát triển cá tính, nguyện vọng và tài năng.
Nhiều ý kiến chỉ trích nền giáo dục theo triết lý bình đẳng dẫn tới tâm lý cào bằng, triệt tiêu tài năng và không thể áp dụng trên thực tế. Các nhà làm chính sách giáo dục cũ còn quan niệm rằng tài năng trong xã hội phân bố không đồng đều. GS Pasi Sahlberg chứng minh điều này khi chỉ vào kết quả của hệ thống giáo dục cũ tại Phần Lan: Sau bảy năm giáo dục bắt buộc hệ phổ thông, chỉ một số ít trẻ em có thể học tiếp lên bậc trung học hoặc các trường công dân do hội đồng thành phố lập nên. Còn lại sẽ phải rời giảng đường.

Dạy để học chứ không phải để thi
Trong hệ thống giáo dục mới, bài kiểm tra - công cụ trước nay được dùng để đánh giá lại quá trình giảng dạy của thầy và đong đo kết quả của trò - đã trở nên vô dụng và bị bãi bỏ. Trẻ em Phần Lan không bị chấm điểm bài làm trước khi học xong lớp 5, càng không phải thi cử nặng nề trước năm 18 tuổi.
Người dân ở đây quan niệm nhà trường là nơi đào tạo ra các công dân tốt cho một xã hội dân chủ chứ không phải để khoe thành tích hay luyện ra những con rối chỉ để cung cấp cho cuộc cạnh tranh khốc liệt ngoài thị trường lao động. Do đó môi trường học tập tại Phần Lan nhìn chung thoải mái hơn so với nhiều nước và tránh tối đa áp lực điểm số.
Bên cạnh đó, chính sách giáo dục Phần Lan cũng tin rằng mỗi nhà trường đều có phương pháp phù hợp riêng và mỗi giáo viên cũng có cách riêng để dạy học trò của mình một cách tốt nhất. Thế nên chính sách giáo dục không khắt khe về mặt quy định nội dung, phương pháp hay áp đặt yêu cầu ngặt nghèo với thầy, cô giáo. Thay vào đó, Quốc hội thiết lập những nguyên tắc cơ bản của chính sách giáo dục. Nhiệm vụ của chính phủ là cung cấp kinh phí cho các trường học và thông qua Bộ Giáo dục ban hành những chính sách về giáo dục. Ban Giáo dục Quốc gia tổ chức vạch ra chương trình giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cung cấp các dịch vụ liên quan. Nhìn chung, cũng như vai trò của giáo viên đối với học sinh, vai trò của nhà nước đối với ngành giáo dục là hướng dẫn và hỗ trợ hơn là cai quản.
Không ở lại lớp nhưng cũng không ngồi nhầm lớp
Phần Lan cho rằng mỗi học sinh bị rơi rụng trong quá trình học sẽ là tổn thất đối với xã hội. Trước đây, tình trạng lưu ban khá phổ biến do học sinh không đủ điều kiện ở một môn nào đó. Học lại một lớp đồng nghĩa với việc mất đi một năm để bù đắp cho những khiếm khuyết có thể khắc phục trong thời gian ngắn hơn hẳn. Do đó giáo dục Phần Lan có một nguyên tắc nữa là “không ai bị bỏ lại phía sau” nhưng cũng không được để bị ngồi nhầm lớp.
Bí quyết để khắc phục khó khăn nơi người học là phát hiện và giải quyết vấn đề khó khăn của trẻ từ sớm. Người làm chính sách giáo dục Phần Lan hiểu rằng học sinh không chỉ ngồi trong lớp học mà còn chịu tác động từ cuộc sống bên ngoài như gia đình, bạn bè, mọi người xung quanh… Vậy nên giáo dục Phần Lan không đứng riêng một mình mà liên kết chặt chẽ với các lĩnh vực khác.
Theo đó, mọi học sinh được hưởng dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý để phát triển toàn diện. Ở trường các em được ăn bữa trưa miễn phí, không phải đóng học phí và hưởng các dịch vụ phúc lợi khác. Các bậc cha mẹ cũng được nhà trường quan tâm, tư vấn cách thức chăm sóc, phương pháp giáo dục, giúp con vượt qua khó khăn ở nhà. Điều này giúp xóa bỏ đáng kể các khác biệt xuất phát từ bên ngoài nhà trường, để mọi người đi học đều có xuất phát điểm gần như nhau. Hạn chế tư tưởng ganh ghét và đố kỵ hay phân biệt giai tầng xã hội xuất hiện trong đầu trẻ khi trẻ chưa đủ nhận thức.
Những trở ngại phát sinh trong quá trình học, ví dụ như các học sinh chậm hiểu, thích đùa nghịch, ham chơi hơn ham học… được giải quyết bằng nhiều cách khác nhau. Một phương pháp đơn giản thường gặp là cho giáo viên kèm trực tiếp, đồng thời trò chuyện, tâm sự với các em học sinh yếu kém. Trong giờ giảng, ngoài giáo viên chính sẽ có thêm một người nữa làm nhiệm vụ hỗ trợ riêng cho những học sinh nào gặp khó khăn với môn học đó.
Học sinh gặp khó khăn đặc biệt trong học tập, tâm lý, thể chất… cũng có thể được chuyển sang học các khóa đặc biệt, với kiểu bán thời gian hoặc toàn thời gian, được cung cấp bởi nhà trường hoặc một tổ chức khác. Việc theo học khóa đặc biệt cần phải có giấy xác nhận của chuyên gia về tâm lý, y tế hoặc phúc lợi xã hội và nhất thiết phải được trao đổi với phụ huynh. Các khóa giáo dục đặc biệt này khác với lớp học thêm ở mục đích giúp học sinh khắc phục các vấn đề trong việc học chứ không phải để luyện thi. Thời khóa biểu của mỗi học sinh đều được sắp xếp đặc biệt cho phù hợp với riêng từng em đó.

Nền giáo dục phá cách nhưng rất hiệu quả
Đối với nhiều quốc gia, giảng đường là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có sức cạnh tranh cao trong thị trường. Học sinh khi ra trường phải đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế để tồn tại và phát triển sự nghiệp. Nhưng điểm yếu của phương châm giáo dục hướng thị trường là bỏ quên vấn đề bất bình đẳng về cơ hội. Hệ quả là những trường học tốt nhất thường dành cho những đối tượng giàu nhất. Theo tạp chíForbes, 45,6% sinh viên Harvard (Mỹ) xuất thân từ gia đình có thu nhập hằng năm trên 200.000 USD, tức nằm trong nhóm 3,8% các hộ có thu nhập cao nhất nước Mỹ.
Một quan niệm khác cũng đang phổ biến tại nhiều nước đó là cần kiểm tra, thi cử để đánh giá chất lượng học sinh. Nhưng Phần Lan là trường hợp cá biệt. Học sinh dù được hướng nghiệp rất tốt nhưng không bao giờ đến lớp với tâm thế phải cạnh tranh khốc liệt để có việc sau khi ra trường.
Trẻ em Phần Lan được gạt bỏ đi áp lực điểm số, hưởng thụ nền giáo dục thoải mái hàng đầu thế giới. TrangThe Conversationcho biết trẻ em Phần Lan 9-11 tuổi chỉ ở trường trong khoảng 640 giờ mỗi năm, ít hơn đáng kể so với trẻ em Anh (899 giờ), Pháp (847 giờ) hoặc Nhật (800 giờ).
Nhìn có vẻ Phần Lan đang đi ngược xu thế chung nhưng học sinh Phần Lan thể hiện thành tích đáng nể. Chẳng hạn, học sinh Phần Lan đạt hạng sáu ở môn toán, hạng nhì môn khoa học, hạng ba môn đọc trong kỳ thi PISA 2009. Nhìn sang Mỹ, thứ hạng của học sinh trong các môn trên lần lượt là 30, 23 và 17.
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 3556 | Phản hồi : | Chuyên mục :

Mỹ: Giáo dục sống nhờ triết lý “tự do”
Triết lý giáo dục “tự chủ - tự do” tạo ra sự đa dạng về nhân tài, từ đó sinh ra sự phồn thịnh về thành quả cho nền kinh tế - xã hội Mỹ.
Tổng thống thứ hai của Mỹ John Adams từng nói: “Trẻ em nên được giáo dục dựa theo nguyên tắc tự do”. Suốt hơn 200 năm phát triển, nền giáo dục Mỹ vẫn trung thành với triết lý đó. Những công dân Mỹ tương lai được định hình bởi giá trị cốt lõi là tự do đi kèm với tự chủ. Cũng chính vì thế mà giá trị của “giấc mơ Mỹ” đã và đang len lỏi đến tất cả “ngóc ngách” của thế giới.
“Tự do” gắn liền “tôn trọng” và “trách nhiệm”
Nền giáo dục Mỹ hướng đến việc đào tạo ra những con người tự do, có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biến động từng ngày. Người Mỹ hiểu rằng việc “bó buộc” trẻ em trong những quyển sách “quốc định” chỉ khiến sức tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ bị giới hạn. Điều đó đồng nghĩa với việc hạn chế khả năng sống của trẻ trong một thế giới hội nhập, đa dạng. Đó là lý do tại sao chương trình học tại các trường ở Mỹ rất giàu tính trải nghiệm, kích thích sự phát hiện, khuyến khích trẻ đưa ra tất cả suy nghĩ “xung quanh một câu hỏi”.
Tuy nhiên, triết lý “tự do” không có nghĩa là thiếu sự tôn trọng hay thiếu bình đẳng. Cái tự do mà người Mỹ muốn có là tự do về tư tưởng - quyền được giữ quan điểm của bản thân. Nhưng phải tôn trọng ý kiến (hay sự tự do tư tưởng) của người khác. Chẳng hạn, nếu một sinh viên ngành sinh học không tin theo thuyết tiến hóa, anh ta được quyền giữ nguyên lập trường. Nhưng sinh viên này vẫn phải tìm hiểu học thuyết đó khi bước vào lớp như các bạn khác.

“Tự do” càng không có nghĩa là cứ việc gì mình không thích thì né tránh mà trái lại phải sống một cách có trách nhiệm. Trước hết là sống trách nhiệm với bản thân. Ví dụ, người Mỹ có thể theo học hầu như bất kỳ trường nào trong vô số đại học, tuy nhiên lựa chọn đó không được tùy tiện hay nhất thời mà phải được cân nhắc kỹ càng về lợi ích của bản thân: sở thích, nguyện vọng, ước mơ.
Bên cạnh đó là sự trách nhiệm với cộng đồng. Thầy cô giáo dạy các học sinh của mình rằng công dân Mỹ dù có đồng tình với những chủ trương, chính sách của chính phủ hay không thì cũng phải đi bỏ phiếu để thể hiện, đóng góp tiếng nói của mình. Những công dân của “chú Sam” luôn tin tưởng, kỳ vọng và nỗ lực thực hiện trách nhiệm đào tạo tất cả trẻ em Mỹ bằng cách dạy cho chúng hiểu rằng mỗi công dân đều có khả năng, trách nhiệm đóng góp ý tưởng đột phá cho đất nước.
Với quan niệm đó, nền giáo dục Mỹ được thiết kế sao cho cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ cá nhân. Một mặt học sinh có nhiều lựa chọn để đi theo con đường học tập riêng. Ở trong lớp, các em được khuyến khích nói lên lập trường của mình. Mặt khác, mỗi người học đều phải nghiêm túc chịu trách nhiệm với những gì mình đã chọn.
Nhà trường tự chủ - học trò nhiều lựa chọn
Chuyên gia giáo dục Antonella Corsi-Bunker thuộc Trường ĐH
Thế nên tính tự chủ của các trường đại học ở Mỹ rất cao. Điều này dễ thấy khi Mỹ không có hệ thống trường quốc gia. Hiến pháp giao trách nhiệm giáo dục cho chính quyền từng bang và địa phương thay vì cho chính phủ liên bang. Mỗi bang có sở giáo dục riêng quản lý các trường trong địa phận. Tuy nhiên, đây chưa phải là cơ quan “chỉ định” quyền lực, quyết định hoạt động của các trường. Chính quyền bang chỉ có quyền ban bố những tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của trường; khảo sát số lượng và trình độ giảng viên, hệ thống hạ tầng, quy mô trường học… Từ đó quy định trường có thể đào tạo tối đa bao nhiêu học viên để đảm bảo chất lượng tối thiểu, quyền lợi tối thiểu cho người học.

Trong khi đó, các đơn vị hành chính thấp hơn, bao gồm các cộng đồng địa phương - thường là thành phố hoặc thị trấn - mới là cơ quan có quyền bổ nhiệm các ban giám hiệu cho trường công lập. Ban giám hiệu này sẽ quyết định chương trình tuyển chọn đầu vào, phương pháp đào tạo giảng dạy, tổ chức hoạt động rèn luyện… sao cho phù hợp với nhu cầu của địa phương. Điều này đồng nghĩa trường công có sự độc lập đáng kể đối với các cấp quản lý trên cao. Các trường dân lập tư thục còn có quyền tự chủ cao hơn trường công lập.
Cấu trúc trên dẫn đến việc các loại hình đào tạo mở Mỹ rất đa dạng. Đơn cử như giáo dục sau bậc phổ thông, nước Mỹ có hơn 3.500 trường bao gồm các đại học, cao đẳng, cao đẳng cộng đồng, viện nghiên cứu, còn có cả loại hình đào tạo từ xa. Mỗi trường có thế mạnh và yêu cầu rất khác nhau, tạo ra sự đa dạng về mặt chọn lựa: Ai muốn theo học đều sẽ có cơ hội phù hợp với mình.
Người Mỹ dạy trẻ cách “tự đưa ra chọn lựa” ra sao?
Người Mỹ rất chú trọng việc rèn luyện tư duy độc lập cho trẻ nhỏ. Khi mới đi học, trẻ thường nhìn nhận thế giới một cách phiến diện, chỉ có đen-trắng, đúng-sai.
Nhiệm vụ đầu tiên của người thầy là giúp học sinh mở rộng tầm mắt để thấy được một thế giới đa chiều - một câu hỏi có nhiều đáp án, một hiện tượng có nhiều cách lý giải hay một bức ảnh sẽ có nhiều cái tên ở những góc cạnh khác nhau.
Đến lúc này trẻ có xu hướng cho rằng “mọi thứ đều đúng” hoặc ngược lại là “không có gì đúng cả”. Điều giáo viên cần làm là dạy trẻ cách quan sát, nhận xét, đánh giá sự việc theo từng góc nhìn cụ thể, từng mối quan hệ cụ thể (giả thuyết - kết luận; nguyên nhân - hệ quả…) để trẻ hình thành sự nhạy cảm trong việc nhìn nhận sự việc, hiện tượng.
Sau đó, quan trọng và cốt lõi, người Mỹ giúp con em họ hiểu rằng “góc nhìn nào cũng phải có lý lẽ riêng” - thể hiện tư duy độc lập, đầy tính phản biện. “Chỉ tay vào một con chó, học sinh có quyền kết luận đó là con mèo nếu em ấy chứng minh được điều ấy dưới góc nhìn cụ thể và bằng lý lẽ thuyết phục”. đây là giai thoại vui mà nhiều người thường dùng để mô tả cách dạy trẻ tại Mỹ.
Kết thúc các giai đoạn trên, học sinh Mỹ hiểu rằng không quan trọng ở việc “chọn cái gì” mà điều cốt yếu là “giải thích/chứng minh đó là lựa chọn tối ưu”. Đó là cách mà giáo dục Mỹ đào tạo ra các sản phẩm có thế giới quan cân bằng giữa chủ quan và khách quan, vừa biết tôn trọng ý kiến người khác vừa biết cách bảo vệ quan điểm của mình.
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 3592 | Phản hồi : | Chuyên mục :

Nhật Bản: “Giáo dục đạo đức” là cốt lõi
Ngành Giáo dục Nhật Bản có vị thế tốp đầu thế giới như hiện nay vốn được xây dựng trên triết lý “con người = đạo đức”, đề cao tuyệt đối tính kỷ luật và tinh thần tự lập.
Nhiều chuyên gia giáo dục nhận định giáo dục Nhật Bản thời kỳ cận-hiện đại được bắt đầu từ thời Minh Trị (1868-1912). Tuy nhiên, các văn bản pháp luật, các quy định giáo dục thời Minh Trị chưa nhắc đến “triết lý giáo dục”. Mãi sau Thế chiến thứ II, các nhà nghiên cứu giáo dục người Nhật cho rằng giáo dục Nhật Bản ngay từ trước 1945 vận hành theo triết lý “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức” - được thể hiện trongSắc chỉ giáo dục(hay còn được biết đến là “thánh chỉ” của Thiên hoàng Minh Trị ban bố vào năm 1879). Triết lý “đạo đức” trong thánh chỉ của Minh Trị chứa thông điệp giáo dục đạo đức mang màu sắc Nho giáo - hết lòng vì vua, trung quân mới là ái quốc.
Từ “thầy công bằng” đến “trò cống hiến”
Thời Minh Trị, từ triết lý “đạo đức”, không phân biệt hoàn cảnh, sắc tộc, tôn giáo, giai tầng của bất cứ thanh niên nào, hễ có tiềm năng và phát huy được tố chất, mong mỏi và khát vọng phát triển quốc gia, chính phủ Nhật liền đưa sang các nước phương Tây để tiếp thu các giá trị khoa học kỹ thuật, công nghệ mới rồi quay về phục vụ “vua”. Triết lý “đào tạo người phục vụ cho đất nước” dựa trên nguyên tắc công bằng nhanh chóng mang về hiệu quả khi nhân tài từ phương Tây trở về phục vụ Nhật Bản.
Giáo dục Nhật nhờ đó mà học hỏi tinh túy từ hệ thống giáo dục nước ngoài: Hệ thống hành chính giáo dục chặt chẽ và trật tự của Pháp; hệ thống đại học “người dẫn đầu”, tập trung phát triển giáo dục đại học theo mô hình các trường đại học ưu tú của Đức; mô hình trường học công lập dựa trên đạo đức và sự công bằng cho mọi người từ Anh; cùng với phương châm “Trường học phải đảm bảo sự phát triển cho tất cả trẻ em” đến từ John Dewey, một nhà triết học và nhà cải cách giáo dục Mỹ. Nhờ việc dạy cho trẻ triết lý “ái quốc”, một lực lượng đông đảo trí thức Nhật tiếp thu Tây học nhanh chóng quay về, đưa Nhật Bản theo kịp quá trình hiện đại hóa quốc gia với nhiều nước phương Tây.

Hiện nay các lớp học ở Nhật không tổ chức theo kiểu “gom học sinh có điểm số cao lại với nhau”. Nhà trường cũng không chủ trương “khoe” kết quả học tập của các em đến mọi người, vì cho rằng điểm số không phản ánh được khả năng thực sự của trẻ, mọi học sinh đều có cơ hội học tập trong môi trường bình đẳng.
Cho đến vài năm gần đây Nhật Bản mới chủ trương thí điểm kỳ thi cho các em lớp 6 và lớp 9 nhằm giám sát hiệu suất của hệ thống giáo dục chứ không phải đánh giá năng lực học sinh. Kỳ thi chính thức duy nhất chỉ được tổ chức để các em học sinh vào học trường trung học và đại học.
Gánh nặng thi cử được chia sẻ lên vai của thầy cô, cha mẹ, bạn bè cùng lớp của các em học sinh. Thầy cô dạy cho trẻ nghĩa vụ giúp bạn vượt khó vì đó là giá trị “đạo đức” - yếu tố truyền thống của người Nhật, đồng thời cũng là cơ hội để cả học sinh yếu tiến bộ, còn học sinh giỏi trải nghiệm và rút kinh nghiệm được nhiều điều từ người bạn của mình.
Trách nhiệm của thầy cô với trẻ rất cao, được thể hiện thông qua môi trường học tập thầy cô xây dựng cho trẻ trải nghiệm; mối quan hệ tương trợ của thầy cô với trẻ em ngoài giờ học; sự kết hợp giữa thầy cô với phụ huynh để giúp trẻ vượt khó khăn và phát triển toàn diện. Năng lực của giáo viên được đánh giá thông qua những thành quả hiện hữu, những sáng kiến đột phá, mức độ đóng góp vì cộng đồng… của các em học sinh mà họ giảng dạy (chứ không phải điểm số).
Bên cạnh đó, hiệu trưởng và giáo viên của các trường học được phân bố theo các quận và luân chuyển thường xuyên để đảm bảo rằng không có bất kỳ sự độc tài nào tồn tại. Chưa kể việc phân bổ tài chính, y tế, khuyến học… từ chính phủ cũng rất công bằng, nhằm hình thành tư duy công bằng trong suy nghĩ trẻ. Từ triết lý “đạo đức”, môi trường giáo dục công bằng qua nhiều thế hệ tạo ra một nước Nhật rất minh bạch, với tỉ lệ tiêu cực và tham nhũng rất thấp. Theo số liệu mới nhất, Nhật Bản đứng thứ 17/178 nước trên thế giới về minh bạch.
Ý thức “tuân thủ kỷ luật” tuyệt đối
Chuyên gia giáo dục Bassey Ubong (Nigeria) trong bài viết“Triết lý giáo dục và những ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của quốc gia”đã dẫn lời nhà nghiên cứu giáo dục F. N. Kerlinger (1951) nhận định giáo dục Nhật Bản sau thời Minh Trị, rõ nhất là từ giữa thế kỷ 20 cho đến tận nay, vẫn vận hành theo triết lý “shữshin”. Hiểu nôm na, “shữshin” được gói gọn trong từ “đạo đức” - trung tâm của giáo dục kiến thức, đời sống, sinh hoạt, kỹ năng làm việc của người Nhật.
Nhà giáo Nguyễn Quốc Vương, ĐH Sư phạm Hà Nội, trong bản dịch Luật giáo dục cơ bản (được Quốc hội Nhật Bản ban hành lần đầu năm 1947 và sửa đổi năm 2006) đã chỉ ra triết lý “đạo đức làm nền tảng trong giáo dục” của người Nhật được mô tả: “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng quốc dân có thể mài giũa nhân cách bản thân...”. Tuy nhiên, triết lý giáo dục “đạo đức” không còn là đào tạo người trung quân ái quốc.
Chuyên gia giáo dục Bassey Ubong còn cắt nghĩa “đạo đức” trong triết lý giáo dục người Nhật ngày nay chính là tính kỷ luật trong đời sống, sinh hoạt và làm việc. Bassey Ubong mô tả “Đạo đức còn có nghĩa là ý thức tuân thủ kỷ luật cao độ được phản ánh thông qua quan niệm xem giáo dục là một con đường dẫn đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ đó thanh niên tích cực học tập, tuân theo các chuẩn mực về tôn trọng mọi người xung quanh và tham gia đóng góp nhằm giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp, ai nấy đều tốt nghiệp và có việc làm”.
Người Nhật luôn tin tưởng rằng nếu giáo dục tính kỷ luật hiệu quả cho một thế hệ trẻ em hôm nay thì trong tương lai gần Nhật Bản sẽ nhận được một thế hệ nhân tài trưởng thành “kỷ luật thép”, có khả năng đóng góp to lớn cho tổ quốc. Các nguyên tắc kỷ luật: Quản lý thời gian; tuân thủ quy trình làm việc, nguyên tắc hợp tác và phối hợp, tự phê bình bản thân, dám chịu trách nhiệm, không đổ lỗi hoàn cảnh, văn hóa từ chức… được người Nhật hiểu và vận dụng thuần thục. Lý thuyết ngành kinh tế học đã chứng minh được rằng người Nhật đã đúng khi tích lũy tính kỷ luật cho từng thế hệ trẻ em. Qua nhiều thập niên, các thế hệ người trưởng thành cộng hưởng các giá trị kỷ luật, tạo thành một dân tộc làm việc khoa học, bài bản, hiệu quả tối đa.
Giáo dục tư duy “tự lập” để học tập suốt đời
Trên nền tảng triết lý giáo dục đạo đức, trẻ em Nhật còn được định hướng “đạo đức = tự lực cánh sinh”. Mỗi bản thân cố gắng học tập, làm việc tự chủ, không ỷ lại để có thể hòa nhập môi trường hội nhập đầy biến động các giá trị văn hóa và tri thức. Việc tự lập còn giúp học sinh có cuộc đời phong phú, có thể học tập ở mọi nơi, mọi lúc trong suốt cuộc đời mình và có thể vận dụng thích hợp những thành quả đó.
Để thực hiện triết lý này, nội dung và phương pháp giáo dục môn nghiên cứu xã hội được nhấn mạnh “học sinh làm trung tâm” và nhấn mạnh giá trị trải nghiệm từ các bài học hơn là nhồi nhét kiến thức. Nhật thay đổi hệ thống sách quốc định thành kiểm định - nhiều loại sách với các chuẩn đầu ra khác nhau để tăng cường khả năng phản biện cho học sinh, kích thích việc tìm tòi, phát huy sức sáng tạo.
Chưa dừng tại đó, trong các lớp học, học sinh phổ thông sớm được giáo viên dạy rằng “không có chân lý đúng vĩnh viễn”. Thế nên các bài học thầy cô đưa ra đều được “trích nguồn”, cổ vũ các em tìm thêm nguồn thông tin, góc nhìn, phát hiện vấn đề mới. Đó là một trong những lý do cốt yếu giúp người Nhật nằm trong tốp đầu các quốc gia có lượng bằng sáng chế “khủng” nhất thế giới với vô số thương hiệu tồn tại xuyên thế kỷ.
Thầy cô thường xuyên trao đổi, tư vấn cho bậc cha mẹ chủ động dạy cho con họ tính tự lập, ngay trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày.
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 3562 | Phản hồi : | Chuyên mục :

Giáo dục Pháp: Sau phổ thông, đủ đi làm
Mục đích của giáo dục là đào tạo ra các công dân tốt và hữu ích cho quốc gia dân tộc. Theo triết gia Pháp Régis Debray, tại Pháp mỗi đơn vị hành chính đều có hai trung tâm đầu não: thứ nhất là tòa thị chính, thứ hai là trường học.
Người Pháp coi mục đích của giáo dục là đào tạo ra các công dân tốt và hữu ích cho quốc gia dân tộc nhưng cũng rất bình đẳng và tự chủ, phi tôn giáo và chính trị. “Lý tưởng” này được người Pháp thực thi bằng các giải pháp, chính sách giáo dục cụ thể, thiết thực.
Mỗi học viên ứng với một vị trí trong xã hội
Đây là một trong những điểm sáng nhất của nền giáo dục Pháp. Giống như nhiều nước, trẻ em pháp từ sáu tuổi đến 16 tuổi phải đến trường theo học chương trình phổ thông. Nhiều nước xác định giáo dục phổ thông là giáo dục căn bản, còn để làm việc thì phải chờ hậu đại học, cao đẳng hoặc trường nghề. Còn tại Pháp, ngay từ thời phổ thông người học đã biết mình có thể làm việc gì sau khi tốt nghiệp. Thế nên tại đây, việc dạy bao quát (rộng) diễn ra từ sớm (cấp I, cấp II). Khi bắt đầu lên cấp III, Pháp có nhiều loại bằng tốt nghiệp THPT Baccalauréat (BAC) hơn so với nhiều nước khác - vốn chỉ có chung một bằng tốt nghiệp phổ thông.
Cụ thể, Pháp có đến ba loại bằng tốt nghiệp phổ thông khác nhau với những “địa chỉ ứng dụng” khác nhau. Đầu tiên là BAC Général. Hệ này dành cho những học sinh có học lực khá giỏi hoặc những em thực sự muốn theo đuổi chương trình đại học hay cao học trong tương lai. Theo đó, các em có thể chọn học khối ngành tự nhiên (BAC Science), khối ngành kinh tế xã hội (BAC Economie Social) hoặc khối ngành văn học (BAC Littérature).
Chính vì phân ngành nên học sinh chỉ học những môn chuyên ngành là chính ở cấp III (trừ một số môn bắt buộc trong đào tạo kỹ năng cơ bản, nhân cách, đạo đức… được dạy từ cấp I, cấp II). Thế nên chương trình học được giảm thiểu tối đa để các em không phải bị nhồi nhét kiến thức không cần thiết. Tất nhiên, đề thi tốt nghiệp tương ứng cho từng khối ngành cũng khác nhau.
Các em học lực yếu hơn nhưng vẫn mong muốn theo đuổi việc học thì có thể chọn hệ BAC Tech. Chương trình đào tạo hệ này tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục theo học các trường cao đẳng, trở thành những kỹ thuật viên, chuyên viên cao cấp.

Hệ thống giáo dục chặt chẽ lấy học sinh làm trung tâm
Dù sự phân cấp tốt nhưng điều quan trọng là hệ thống hành chính - giám sát giáo dục tại Pháp cũng rất khắt khe để đảm bảo chất lượng.
Sống ở quê hương của phong trào Khai sáng và cuộc Cách mạng năm 1789, người Pháp vô cùng trân trọng tính tự chủ, bình đẳng của dân tộc mình. Hiến pháp năm 1958 khẳng định Pháp là “nước cộng hòa thống nhất, phi tôn giáo, dân chủ và xã hội. Mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nguồn gốc xuất thân, sắc tộc, tôn giáo”. Những tính từ trong tuyên bố trên cũng có thể được dùng để mô tả phương châm giáo dục của Pháp.
Mọi người học, từ trẻ nhỏ đến người già đều bình đẳng, không phân biệt chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng. Để bảo đảm nguyên tắc trên, người Pháp xây dựng một hệ thống tập trung và thống nhất. Trường công lập chiếm số lượng lớn nhằm tạo môi trường bình quyền cho học sinh. Các trường tư thục được tự do hoạt động nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của nhà nước nhằm hạn chế tình trạng trường chèn ép, tạo thiệt thòi cho học sinh so với trường công.
Các giám đốc sở giáo dục đều do tổng thống bổ nhiệm và giáo viên cũng do nhà nước tuyển dụng thông qua các hình thức kiểm tra, thi cử minh bạch và khắt khe. Kết quả của cách cấu trúc trên là một hệ thống trường học có độ đồng nhất cao, triệt để giữ gìn các giá trị tốt đẹp của quốc gia, dân tộc. Chương trình học gần như giống hệt nhau ở mọi trường học nhằm đảm bảo sự đồng nhất trong chuẩn đầu ra.

Kích thích tư duy phản biện và khả năng sáng tạo
Giáo dục Pháp cũng chú trọng việc rèn giũa tư duy cho các công dân tương lai theo hướng tự do và tự chủ. Pháp là một trong rất ít nước áp dụng môn triết học cho học sinh cuối bậc phổ thông. Triết học ở đây không chỉ là lịch sử các lý thuyết mà là cách suy nghĩ, cách đặt vấn đề.
Học sinh cần nghiền ngẫm các quan điểm kinh điển của các nhân vật lỗi lạc như Plato, Kant, Hegel hay Sartre để có nguồn cảm hứng về giá trị của việc học. Việc thảo luận các vấn đề như vật chất và ý thức, luật pháp, xã hội, hạnh phúc... thông qua những câu chuyện thường nhật trong gia đình, giữa bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm… không phải là chuyện lạ với các em.
Thanh tra giáo dục quốc gia Mark Sherringham cho biết môn học trên nhằm phát triển năng lực tư duy phản biện và tìm tòi cái mới của học sinh. Theo ông, kết quả của việc dạy triết rất đáng ghi nhận: Nhiều người Pháp có được sự đam mê đối với trí tuệ để theo đuổi học tập suốt đời.
Một điểm đặc trưng khác của giáo dục Pháp là tính phi tôn giáo. Bằng cách tách tôn giáo ra khỏi giáo dục, người Pháp mong muốn tạo ra một môi trường học thuật dựa trên khoa học hơn là niềm tin riêng của cá nhân.
Thoát khỏi sự áp đặt của các quan điểm tôn giáo, các em có cơ hội xem xét mọi việc bằng quan điểm của mình chứ không phải dựa dẫm vào bất kỳ thần linh nào hộ mệnh. Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng Giáo dục Vincent Peillon, điều lệ đó cũng nhằm mục đích thúc đẩy tôn trọng tự do tín ngưỡng, không trọng không khinh bất kỳ tôn giáo nào. Điều này giúp học sinh cảm nhận được sự công bằng, tự chủ, chất khoa học của nền giáo dục nước nhà
Đăng lúc : 2014-09-23 | Đã xem : 3486 | Phản hồi : | Chuyên mục :
- Yêu sao hai tiếng “phụ huynh” (2014-09-23)
- Đề xuất xây nhà vệ sinh 2 tỷ đồng: Phụ huynh “phản pháo” (2014-09-23)
- Tá hỏa với bảng cửu chương theo phép tính… cộng (2014-09-23)
- Sự tích con muỗi (2014-09-23)
- Triết lý giáo dục Việt Nam: Học để làm quan! (2014-09-23)
- Apple lập kỷ lục doanh số 10 triệu iPhone 6, 6 Plus bán ra trong 3 ngày (2014-09-23)
- LG trình làng smartphone có thiết kế nắp gập cổ điển (2014-09-23)
- HKPhone ra mắt Racer INNO chạy chip Qualcomm (2014-09-23)
- Sony chính thức bán máy chơi game PS Vita TV tại Việt Nam (2014-09-23)
- Giao quyền chủ động cho giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học (2014-09-23)
- Một số giải pháp thực hiện chương trình đổi mới hình thức Giáo dục Âm nhạc ở độ tuổi Mẫu giáo (2014-09-23)
- Quỹ Nhân ái hỗ trợ nóng 10 triệu đồng đến cậu bé 'muốn được cõng mẹ...' (2014-09-23)
- Trao 50 suất học bổng đến sinh viên Đắk Lắk nhân dịp năm học mới (2014-09-23)
- Tụi con đã có nước sạch rồi”! (2014-09-23)
- iPhone 6 'hét giá' lên đến 49 triệu đồng là điểm nhấn công nghệ tuần qua (2014-09-23)
- Cách học mới cho học sinh tiểu học (2014-09-23)
- Tập huấn kỹ năng cho người nuôi, giữ trẻ (2014-09-23)
- Phần Lan: Tuyệt đối tin trẻ (2014-09-23)
- Đổi mới phương pháp dạy học Cập nhật lúc : 15:19 07/08/2013 Giáo viên hãy là một nhà tư vấn tâm lý! (2014-09-23)
- Mỹ: Giáo dục sống nhờ triết lý “tự do” (2014-09-23)
- Nhật Bản: “Giáo dục đạo đức” là cốt lõi (2014-09-23)
- Lớp học thêm của thầy (2014-09-23)
- Trao học bổng toàn phần đến 4 tân sinh viên vượt khó đạt điểm cao (2014-09-23)
- Hơn 44,5 tỷ đồng hỗ trợ giáo viên mầm non hợp đồng (2014-09-23)
- Rộn rã ngày khai trường (2014-09-23)
- Trao học bổng toàn phần đến 4 tân sinh viên vượt khó đạt điểm cao (2014-09-23)
- Nam sinh khiếm thị giành học bổng toàn phần đại học quốc tế (2014-09-23)
- “Tân sinh viên lo đi làm công nhân” được cấp học bổng 4 năm học đại học (2014-09-23)
- Mỗi ngày đến trường là một ngày vui (2014-09-23)
- Giáo dục Pháp: Sau phổ thông, đủ đi làm (2014-09-23)
- THẬT THẬN TRỌNG KHI KẾT BẠN (2014-09-25)
- TP.HCM kiến nghị giảm tiền thuê đất xây trường mầm non ngoài công lập (2014-09-25)
- Bất bình đẳng trường công - trường tư (2014-09-25)
- Kỹ năng sống (2014-09-25)
- CẨN THẬN KHI BỊ TẮC ĐƯỜNG (2014-09-25)
- BẢO VỆ MẮT (2014-09-25)