Ngày: 07/03/2016
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong điều 23, luật giáo dục 2005 đã chỉ rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…”….
Trong hệ thống tổ chức của các trường trung học cơ sở, cơ bản để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Để quản lí lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được Hiệu trưởng lựa chọn từ những giáo viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín với học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường nhất trí phân công chủ nhiệm lớp học để thực hiện mục tiêu giáo dục. Như vậy khi nói đến GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCN phải làm, cần làm và nên làm.
Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường trung học cơ sở nói riêng và các trường phổ thông nói chung, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên chủ nhiệm. Một tập thể lớp vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập ở trường. Bên cạnh đó khi giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm và có phương pháp tốt thì sẽ tạo điều kiện và có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1.Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của GVCN lớp trong công tác chủ nhiệm lớp để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THCS.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lý luận về các GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình đối với việc nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp và đã đạt kết quả như thế nào.
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THCS.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 9A - Trường trung học cơ sở Châu Minh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang năm học 2012 - 2013.
4. Giới hạn của đề tài
Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp tại Trường THCS Châu Minh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang trong năm học 2012 - 2013 và những năm học tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập
Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra
Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học sinh (CMHS), bạn bè và hàng xóm của HS.
- Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường mình.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Nghị quyết Trung ương 2 ngày 14 tháng 9 năm 2005, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định một số vấn đề chủ yếu: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế nhanh và bền vững…"
Bộ Chính trị cũng đã đưa ra trong Kết luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 là phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ trên Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên; mở rộng qui mô giáo dục hợp lý; đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào tạo; xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng nhu cầu về chất lượng; tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo”. Do đó công tác giáo dục được Bộ Chính trị và toàn dân coi đó là một sứ mạng của lịch sử. Nếu không có giáo dục thì con người sẽ tụt hậu, đất nước kém phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thiếu ổn định.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, để thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, trong Kết luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị, đồng thời quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vì một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, ngành giáo dục đặt ra cho hệ thống giáo dục việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục là một yêu cầu cấp thiết cho những nhà quản lý cũng như mỗi người giáo viên. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của nhà trường, phụ thuộc vào giờ lên lớp của từng cá nhân của mỗi giáo viên và công tác quản lý của Lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm. Do đó công tác quản lý lớp chủ nhiệm phải được kiểm tra thường xuyên, kịp thời nhằm nắm bắt được tình hình của lớp về học tập, tâm sinh lý của học sinh và từ đó đưa ra những biện pháp hữu hiệu, giúp các em lĩnh hội được tri thức, tiến bộ trong học tập, chuẩn mực ngôn phong, tác phong cho các em, để các em có đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của xã hội đặt ra “vừa hồng, vừa chuyên”, nhằm phát triển đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đối với giáo dục phổ thông, người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GVCN trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Giáo viên chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, GVCN còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục,... Có thể nói vai trò xã hội của người giáo viên chủ nhiệm trở nên lớn hơn nhiều so với chức năng của người giảng dạy bộ môn.
Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt Hiệu trưởng, hội đồng giáo dục nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi phương diện: học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường.
Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học sinh - xã hội. Như vậy, một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm lớp phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn.
Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững mạnh, tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật dành cho giáo dục được hoàn thiện dần và đưa vào áp dụng tạo ra hiệu quả quản lý giáo dục cao hơn. Đảng và Nhà nước có chế độ chính sách tăng cường đầu tư cho giáo dục, nâng cao đời sống cho nhà giáo, tạo tâm lý phấn khởi, yên tâm công tác.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn.
- Sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương tới phong trào giáo dục. Sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của các các cấp quản lý giáo dục mà trực tiếp là Phòng Giáo dục. Cơ quan quản lý giáo dục cấp huyện, cấp tỉnh cũng đổi mới trong công tác kiểm tra, thanh tra, áp dụng những thành tựu KHCN mới trong quản lý học sinh tạo ra không khí thi đua sôi nổi tại các cơ sở giáo dục. Từng kỳ và cuối mỗi năm học đều có hội nghị sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.
- Trường THCS Châu Minh có truyền thống đi đầu trong công tác triển khai mục tiêu giáo dục, các phong trào thi đua của Ngành. Do đó ngay từ đầu năm học Ban giám hiệu đã triển khai các nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường qua các môn học và các phong trào hoạt động của nhà trường trong đó có công tác chủ nhiệm lớp.
- Chi bộ Đảng phát huy được tính tiên phong, gương mẫu, chỉ đạo nhà trường và các tổ chức đoàn thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học. Đảng viên nêu cao tinh thần gương mẫu trước quần chúng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhà trường luôn đoàn kết một lòng cùng chung sức phấn đấu xây dựng nhà trường vững mạnh và phát triển toàn diện.
- Sự quan tâm, đồng thuận của phụ huynh học sinh cùng kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục học sinh.
- Học sinh nhà trường có ý thức học tập tương đối tốt, tôn trọng kỷ luật học đường và nội quy do nhà trường đề ra.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học không ngừng được tăng cường
2.2. Khó khăn
Bên cạnh thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều cơ sở kinh doanh chỉ chú ý đến lợi nhuận. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực thu hút học sinh. Vì thế, hiện tượng trốn tiết, giấu tiền để chơi game là điều không tránh khỏi. Không những thế, hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực khôn lường.
Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với GVCN trong 3 buổi họp phụ huynh trong một năm học. còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không nhiều GVCN thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
Là một giáo viên đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, với chút ít từ những kinh nghiệm tích luỹ được qua thực tế công việc, tôi xin được chia sẻ, trao đổi cùng các đồng nghiệp về công tác chủ nhiệm lớp ở Trường trung học cơ sở Châu Minh - Hiệp Hòa - Bắc Giang với mong muốn nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp, góp phần cùng nhà trường hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Vai trò của người GVCN và những phẩm chất cần có
Cũng như nhiều đồng nghiệp khác, mỗi khi được điều công tác ở một lĩnh vực nào, bao giờ tôi cũng tự hỏi mình là ai trong tập thể, hay trong công việc đó? Với công tác CN tôi cũng tự hỏi “ GVCN là ai?” Và qua thực tiễn của những năm làm chủ nhiệm lớp, bằng trải nghiệm thực của chính mình, tôi đã nghiệm ra rằng : GVCN là một “Hiệu trưởng nhỏ”, GVCN là một “cầu nối đa năng”, GVCN là một người bạn của các em học sinh; GVCN là người cha, người mẹ, người thầy. Như vậy có nghĩa là cùng một lúc GVCN phải sắm rất nhiều vai, và vai nào cũng đòi hỏi phải hoàn thành xuất sắc. Muốn vậy GVCN cần phải nắm được nhiệm vụ cụ thể của từng vai….
Thầy giáo người Nga V.A. Xukhômlinski viết : “ Tôi nghĩ rằng đối với một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người, đó là một nhu cầu sâu sắc trong con người. Có lẽ mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là một điều vô cùng quan trọng. Vì khi ta tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vô giá: đó là tình người mà tập trung ở sự nhiệt tâm, thái độ ân cần, sự chu đáo, lòng vị tha”. Và tôi đã học theo cách của vị thầy đó để đến với các em học sinh…
Lao động của người giáo viên, lao động sư phạm là loại hình lao động đặc biệt; đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đang lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này không phải là vật vô tri, vô giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc... mà là một con người rất nhạy cảm với những tác động của môi trường bên ngoài theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Như vậy, người giáo viên phải nâng cao toàn bộ phẩm chất của người giáo viên, tạo được hình tượng tốt đối với học sinh là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội như Mác đã nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục".
Một là, người giáo viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức tác phong chuẩn mực, phải là người gương mẫu đi đầu trong công việc, lời nói phải đi đôi với việc làm, phải có sức khỏe tốt, năng nổ nhiệt tình. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, là một người có ích cho xã hội. Nói không với cái xấu, tội ác, thù hằn, hiềm khích, ghen tị… đó là sự nêu gương để cho học sinh noi theo
Hai là, luôn luôn tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, làm sao để trở thành một kho tàng kiến thức để cho học sinh tìm hiểu và khai thác, chính điều này sẽ giúp giáo viên tiếp cận học sinh dễ dàng hơn và tìm hiểu tâm lý cũng như hoàn cảnh học sinh thuận lợi hơn.
Ba là, giáo viên chủ nhiệm phải có đức, điềm tĩnh, biết kiềm chế và kiên nhẫn, mới có thể lựa chọn dùng các phương pháp giáo dục đúng đắn, đừng thể hiện sự bực tức, có hành vi bạo lực là điều quan trọng, vì bạo lực sẽ đẻ ra bạo lực. Học sinh sẽ dùng hành vi đó để hành xử tiếp với người khác, hoặc ngay chính người giáo viên chủ nhiệm sẽ bị học sinh hành xử lại như thế.
Bốn là, sẵn lòng giúp đỡ các em khi có hoàn cảnh khó khăn. Sống với một trái tim tràn ngập tình yêu thương sẽ giúp cho học sinh cảm thấy được là có người luôn quan tâm đến các em, lo lắng cho các em, là một hậu phương tinh thần vững chắc để cho các em yêu đời và lạc quan hơn, có như thế sẽ là một động lực thúc đẩy các em học tập tốt hơn.
Tóm lại, học sinh trong độ tuổi này phát triển, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện, trong đó, có những học sinh do hoàn cảnh xuất thân, cá tính đặc biệt, khó giáo dục nên gia đình phải hỗ trợ rất nhiều, giáo viên phải hết sức kiên nhẫn. Giáo viên đều phải là tấm gương tốt để các em thấy hành vi không đúng của mình, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh và xóa dần đi những lệch lạc của các em, các em sẽ chú tâm đến việc học nhiều hơn.
2. Tìm hiểu và nắm chắc đối tượng
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong, khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh.
Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện để làm công tác chủ nhiệm lớp vừa là nội dung quan trọng trong công tác của người giáo viên chủ nhiệm lớp, góp phần tạo nên sự thành công trong việc giáo dục học sinh của nhà trường.
Tôi đã cố gắng tìm hiểu học sinh thông qua nhiều biện pháp, GVCN cần tạo điều kiện về thời gian, không gian và các phương tiện để tìm hiểu học sinh về các lĩnh vực sau:
Tìm hiểu học sinh qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản tự nhận xét của học sinh, nhận xét của GVCN cấp tiểu học hoặc của GVCN cũ. Đây là tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại học sinh.
Đặc diểm về thể chất sinh lí của từng học sinh: thể lực (cân nặng, chiều cao…), sức khỏe (khỏe mạnh hay bệnh tật, vóc dáng bình thường hay bị khuyết tật…). GVCN phải nắm các đặc điểm đó có ảnh hưởng gì đến học sinh.
Những đặc điểm về tâm lí của mỗi học sinh như: khả năng nhận thức, tư duy (thông minh nhanh nhẹn hay bình thường chậm chạp…) trong các hoạt động học tâp, vui chơi giải trí, giao tiếp.…), sở thích, năng khiếu, ước mơ về tương lai…
Nắm vững tính cách và từng hành vi đạo đức của từng học sinh, như chăm học hay lười học, khiêm tốn hay ba hoa, trung thực hay giả dối, mạnh dạn hay nhút nhát…
GVCN phải biết nguyên nhân học yếu để có biện pháp giúp đỡ khắc phục, phải nắm được sở trường học sinh giỏi để có hướng bồi dưỡng.
GVCN cần có kế hoạch gặp mặt từng đối tượng học sinh: cá biệt, khá, giỏi cụ thể từng tháng, từng kì.
GVCN tìm hiểu thêm được tâm tư, nguyện vọng của các em, biết các em cần gì, muốn gì và làm gì? Tuy nhiên, trong giao tiếp sự ân cần và tế nhị của giáo viên sẽ không làm bộc phát được những bản chất xấu của các em, do đó để rõ hơn bản chất của các em giáo viên phải tiếp cận thêm phụ huynh học sinh và những người xung quanh các em, từ đó mới đưa ra những phương pháp hợp lý để giáo dục các em.
Muốn nắm được các thông tin trên GVCN cần phải thông qua các hình thức như: các loại hồ sơ của học sinh, các buổi sinh hoạt lớp, tranh thủ gặp lớp trong những giờ giải lao, giờ nghỉ để tư vấn tìm hiểu các em học sinh trong lớp và hiểu được tập thể lớp…trong công tác này giáo viên cần chú trọng lập phiếu điều tra tình hình học sinh của lớp vào đầu năm học để có thông tin chính xác về các em học sinh.
19 - 09 - 2014
Lịch công tác tuần 3 tháng 9 năm 201419 - 09 - 2014
Training quản trị Cổng thông tin mới23 - 09 - 2014
Lễ trao bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ K2323 - 09 - 2014
Lịch công tác tuần 4 tháng 9 năm 2014