Tin tức Tin tức/(Trường tiểu học Mai Đình 1)/Sinh hoạt chuyên môn/sinh hoạt chuyên môn tổ 4+5/

sinh hoạt chuyên môn

 In tin bài     Email tin bài
Đổi mới phương pháp dạy học với " Bàn tay nặn bột" 

Bàn tay nặn bột” ( tiếng Pháp là “ La main à la pâte” ; tiếng Anh: Hand on) là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. “ Bàn tay nặn bột” ( BTNB) chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra...

Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, “ Bàn tay nặn bột”  luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.

          

Mục tiêu của “ Bàn tay nặn bột”  là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

          

 Để vận dụng phương pháp “ Bàn tay nặn bột”, chúng ta thường tuân theo tiến trình dạy học như sau:

 a. Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề: Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng ( trả lời có hoặc không ) đối với câu hỏi nêu vấn đề.

b. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh: Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của học sinh là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Khi yêu cầu học sinh trình bày quan niệm ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của học sinh như có thể là bằng lời nói ( thông qua phát biểu cá nhân ), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.

c.Bước 3: Đề xuất câu hỏi,giả thuyết, thiết kế phương án thực nghiệm

* Đề xuất câu hỏi:

Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học.Đây là môt bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của học sinh nhằm giúp các em đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học.

* Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu:  Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh suy nghĩ đề xuất thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. Sau khi học sinh đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, giáo viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương pháp thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hay đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà học sinh vẫn chưa nghĩ ra.

d. Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu

Từ các  phương án thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu mà học sinh nêu ra, giáo viên khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để học sinh tiến hành nghiên cứu. Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động.

e. Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức: Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi lại vào vở, coi như kiến thức của bài học. Giáo viên khắc sâu lại kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu ( quan niệm ban đầu ). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.

Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột”  là một vấn đề khá mới mẻ trong việc áp dụng phương pháp BTNB vào chương trình tiểu học và trung học cơ sở tại Việt Nam. Vì vậy, khi đánh giá học sinh giáo viên cần lưu ý:

- Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học.

- Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm.

- Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thực hành.

Dạy học theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột” là giúp cho học sinh rèn luyện các kĩ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiểm tra kĩ năng, kiểm tra năng lực nhận thức hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức.

Khi sử dụng phương pháp “ Bàn tay nặn bột”, giáo viên không phải là người truyền thụ kiến thức dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là giúp học sinh xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với học sinh.

Giáo viên - người hướng dẫn:

. Đề ra các tình huống, những thách thức

. Định hướng các hoạt động

. Thu hẹp những cái có thể

. Chỉ ra, cung cấp thông tin cho HS

Giáo viên – người trung gian:

. Là nhà trung gian giữa “ thế giới” khoa học và học sinh

. Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liê quan với những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mô hình giải thích hợp lí,..

. Đảm bảo sự đón trước và giả quyết những xung đột nhận thức

. Hành động bên cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp